Ngày Dài Nhất |
Nguyên Vũ |
Ðà Nẵng, ngày
24-3-1975
Chuyện
phải đến đã đến. Ngày qua, Chủ nhật 23.3.1975 Huế thực sự
đã bỏ ngỏ. Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn I Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân,
Thủy Quân Lục Chiến đã rút ra cửa Thuận An, tây bắc Huế cách
20 cây số, xuống tàu vào Ðà Nẵng. Những nguồn tin kiểm thính
cho biết cảnh triệt thoái cực kỳ hổn loạn. Hàng ngàn quân xa,
chiến xa, vũ khí và trang dụng bị vứt bỏ ngổn ngang trên bãi
cát. Có những chiếc sáng loáng nước dầu bóng, ngất ngưởng hai
ba cột ăng-ten đã bị "chủ nhân" hốt hoảng bỏ lại
không kịp tắt máy. Nhiều binh sĩ Thiết Giáp liều lĩnh phóng
chiến xa xuống biển, đuổi theo tàu, để chết chìm giữa làn nước
trong xanh, lạnh lùng đến tàn nhẫn. Người ta liên tiếp được
nghe báo cáo của các sĩ quan Hải Quân là đủ loại súng của Bộ
Binh và Thiết Giáp đã bắn xối xã về hướng những chiếc tầu
đổ bộ, được xử dụng trong cuộc di tản. Trong khi đó, từ những
cao địa, pháo địch bắn cầm chừng xuống vụng biển, ngăn chận
cuộc triệt thoái, gây hàng trăm, ngàn thương vong. Nhiều đơn vị
Sư Ðoàn I Bộ Binh cũng bị chận đánh trên đường rút quân về
cửa biển. Nguồn tin sơ khởi cho biết khoảng gần hai trung đoàn
thất tán và mất liên lạc. Thành phần được di tản hoàn hảo
nhất hầu hết là những đơn vị yểm trợ và Bộ Tham Mưu Sư
Ðoàn, trú đóng tại căn cứ Dạ Lê và vùng phụ cận Huế. Khi những
chiếc tàu đổ bộ cuối cùng tách bến, các binh sĩ bị bỏ rơi
đã phẩn nộ nã súng bắn theo những chiếc trực thăng cuối cùng
rời căn cứ. Lựu đạn, cối , đại liên và phóng lựu M79 cũng nổ
vang trên bến tàu, gây thương vong cho hàng chục ngàn người già
trẻ, lớn bé.
Tỉnh lỵ Quảng Tín cũng đang sống những giờ phút rẫy chết.
Pháo địch khởi sự nã vào tỉnh từ 1 giờ sáng nay. Tiếp đó lực
lượng Bộ Binh, có Thiết Giáp yểm trợ, tràn vào tỉnh.
Công điện cuối cùng nhận được hồi 10 giờ sáng cho biết sự
chống trả của quân chính phủ đã hoàn toàn bị dập tắt. Và như
thế, trọn vùng giới tuyến chỉ còn lại thị xã Ðà Nẵng và Hội
An, hai mươi cây số hướng Nam Ðà Nẵng.
Ở một góc nhìn qua địa thế, một vài người đã gợi nhắc tới
ba tiếng Ðiện Biên Phủ. Tuy nhiên, người ta không khỏi tự vấn:
100 ngàn quân nhân, gồm sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, ba sư đoànI,
II, III Bộ Binh, năm Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân cùng các lực lượng
Ðịa Phương Quân và bán chiến đấu khác, rồi sẽ làm được gì
khi tinh thần đã hoàn toàn rữa mục. Ðó là chưa kể gánh nặng
nửa triệu thị dân và hàng triệu dân lánh cư khác đang khiến
Ðà Nẵng ung thối dần...
Dù không có một con số thống kê chính xác, tổng dân tị nạn
tràn về Ðà Nẵng đã vượt qua con số hàng triệu. Tình trạng
gia cư, thực phẩm và vệ sinh công cộng đang ở mức báo động
đỏ. Các trại tỵ nạn Non Nước và Hòa Khánh (được thiết lập
vào mùa hè 72, và đã được tháo gỡ "làm thịt" tận
tình từ đầu năm 74, khi chiến dịch hồi cư dân chiến nạn phát
động) đã được mở lại, nhưng vẫn không đủ thỏa mãn nhu cầu.
Sân vận động, trường học, sân chùa, và bất cứ một khoảng
trống nào có thể tạm thời dựng lên một tấm bạt che mưa nắng
đều đã bị xâm chiếm. Tuy nhiên, mối đe dọa khẩn thiết nhất
là đói khát và bệnh tật. Một vài dấu hiệu bệnh thời
nhiễm cũng mới phát hiện. Ðạo quân ăn mày, vốn đã thặng dư
quân số, cũng được tăng cường hàng ngàn "tân binh" bất
đắc dĩ.
Một bầu không khí ngột ngạt kinh hoàng phủ dầy trên cảnh vật.
Công sở, doanh trại bỗng vắng lạnh, như những mồ ma. Góc mắt
người Ðà Nẵng mờ tối hơn khi đối mặt sự thật: Ở những
giờ phút tuyệt vọng cuối cùng, không chút liêm sĩ, các cấp Tướng,
Tá đã hối hả leo lên trực thăng bỏ rơi cả những thuộc cấp
thân tín nhất.
Trọn một buổi sáng, cơn mưa lớn đột ngột cầm chân tôi tại
Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh. Gần 12 giờ trưa, khi mưa vừa ngớt
hạt, tôi cùng Sâm phóng xe về Ðà Nẵng. Chúng tôi cần ít vật dụng
trước khi vào Quảng Tín làm phóng sự bằng đường bộ. Vừa qua
khỏi ngã ba Phước Tường, đã bắt gặp đủ loại xe chất đầy
dân tỵ nạn đang hối hả đổ ra Ðà Nẵng. Ðông đảo nhất vẫn
là loại xe gắn máy Nhật. Ðủ loại người, loại lính. Súng ống
tua tủa. Dây đạn, dây lựu đạn quấn chằng chịt quanh người.
Nhưng chẳng hiểu ai trong đám bại binh đã bắn được một viên
đạn khi đối diện với địch quân?
Trước doanh trại Tiểu Ðoàn I Quân vận, một đoàn GMC của tiểu
đoàn 22 Pháo đang buồn bã nằm đợi lệnh. Các binh sĩ áo quần
ướt đẫm nước mưa, run rẩy, tái xanh vì lạnh và sợ hãi. Những
khẩu pháo nhem nhuốc bùn lầy như chừng cũng cúi đầu hổ nhục.
Trong khi đó hàng ngàn dân Quảng Tín đang tụ tập trong bến xe
ngã Ba Cây Lan thăm hỏi tin tức người thân. Theo lời một đoàn
trưởng Nhân Dân Tự Vệ, đêm qua, giữa lúc cơn mưa lớn ào ạt
trút nước, pháo địch bắt đầu nã vào tỉnh lỵ. Tuy nhiên,
không ai nghĩ có thể bị tấn công. Ðã lâu, đặc biệt sau ngày
Tiên Phước thất thủ, dân quân Quảng Tín được tập làm quen với
những cuộc pháo kích mỗi ngày của địch. Hơn nữa, sự hiện diện
của một lực lượng quân đội đông đảo tại Hương An và Hà
Lam cho mọi người ảo giác chính phủ sẽ không "tái phối
trí" Quảng Tín, và sẽ biến tỉnh lỵ thành một tiền đồn
của vòng đai bảo vệ Ðà Nẵng.
Vẫn theo người Ðoàn Trưởng Nhân Dân Tự Vệ, ở phiên họp tham
mưu hồi 9 giờ sáng, Ðại Tá Xuân, tỉnh trưởng Quảng Tín, còn
cho lệnh "Tử thủ". Nhưng ngay sau đó ông ta lên xe "đi
hội tại Hương An", và khi bóng dáng cán binh Cộng Sản vừa
xuất hiện trên đường phố các binh sĩ cùng lực lượng Cảnh Sát
vội trà trộn với dân chúng, bỏ chạy. Cuộc đào thoát bị cắt
đứt khi Cộng quân phá hủy cây cầu dẫn ra ngoạo ô vào khoảng
11 giờ trưa.
Một sĩ quan khác thuộc Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu cho biết tất cả
các sĩ quan cao cấp, các giới chức hành chánh và Cảnh Sát đều
"thoát nạn". Số dân chúng lọt vào tay Cộng Sản ước chừng
chục ngàn. Phần đông đã quyết định ở lại. Nghèo quá, Và, họ
chẳng thấy dấu hiệu sáng sủa nào khi dấng thân vào một cuộc
phiêu lưu đầy bất trắc.
- Bi đát thiệt rồi anh
Sâm buồn rầu nói để phá vỡ bầu không khí im vắng tẻ lạnh
phủ vây chúng tôi từ lúc chiếc
xe già nua rời bỏ Ðà Nẵng. Sâm tiếp:
- Mất Quảng Tín, dân Hội An bắt đầu run. Ðà Nẵng mình thì chẳng
mấy ngày nữa....
Tôi vẫn im lặng. Khói thuốc vương cay trên rèm mi. Tầm mắt
không hồn phóng trải quanh cảnh vật dọc đường. Không một
bóng người trên những thửa ruộng vàng ươm lúa chín. Xóm thôn lạnh
vắng, mặt lộ trải dài hun hút về phía trước như đường về
địa ngục.
Không một bóng xe, dù là những chiếc xe ngược chiều, không thể
chất đầy hơn người và vật dụng, đã quen thuộc đến nhàm
chán.
Qua khỏi Vĩnh Ðiện, mới bắt đầu thấy bóng dáng sự sống, dù
chỉ những đoàn dân chúng bồng bế , giắt dìu nhau chạy giặc.
Xen lẫn giữa đám đàn bà, con trẻ cùng ông gìa, bà lão là đủ
loại lính, quần áo tả tơi, súng đạn lếch thếch. Kẻ đi chân
đất. Người vỏn vẹn một manh áo trận, một chiếc quần xà lỏn.
Biệt Ðộng Quân anh hùng mũ nâu- Ðịa Phương Quân chiến sĩ nông
thôn- hay Cảnh sát bạn dân, lúc này cũng chỉ hiện thân những
con người trốc chết, rủ mỏi, dại khờ hoảng kinh.
Từ ngã ba Hương An, hàng trăm binh sĩ đang tụ tập, ngóng đợi
tin tức. Một chiếc xe jeep dân sự sơn trắng của một toán phóng
viên truyền hình Mỹ vừa trở đầu ngược về Ðà Nẵng. Phóng
nhìn về hướng nam, hàng trăm dân lánh cư cùng đám binh sĩ thất
lạc đơn vị vẫn lũ lượt rời bỏ vùng lửa đạn.
Dừng xe tại trạm kiển soát đầu cầu, một sĩ quan thuộc tiểu
khu Quảng Tín cho biết Trung Ðoàn 56 còn đóng tại Hà Lam (cách Hương
An 6 cây số).
Cối địch bỗng rải đầy hai lề đường khi chúng tôi qua khỏi
Hương An chừng một cây số. Ðám dân chạy giặc vội hốt hoảng
phóng xuống ruộng, run rẩy men theo lề Quốc Lộ ngược về hướng
bắc. Tiếng kêu khóc, than kể vang lên, xen lẫn trong những tiếng
xoáy rít ớn lạnh và tiếng oà vỡ kinh hoàng của những đầu đạn
vòng cầu. Ðôi lúc những những mảnh đạn bốc theo đất bụi,
phủ chụp lên mũi xe. Tuy nhiên, tôi cương quyết tiếp tục cuộc
phiêu lưu. Có một chút rồ dại nào trong quyết định đó, tôi hiểu.
Tiến thêm về phía Nam được khoảng hai cây số, một chiếc xe
jeep mang dấu hiệu Sư Ðoàn III chạy ngược chiều, xua tay ra dấu
cho chúng tôi quay trở lại. Trưởng xe là Trung tá D. thuộc trung
đoàn 56.
- Tụi nó mặc gỉa lính mình, mới bắn moa xong, Trung tá D. nói lớn.
Quay lại đi.
Giữa lúc đó hai quả cối nổ ngay trên mặt đường cách mũi xe
chừng 50 thước, mảnh đạn rải quanh chúng tôi như mưa rào. Trung
tá D. vội tống ga chạy thẳng. Một cuộn khói xámđục khác lại
vừa bùng nổ ở một bờ tre trên lề đường. Một nhóm binh sĩ từ
dưới ruộng phóng lên nhào về phía xe tôi. Chú tài xế vội bẻ
hết tay lái, quay ngược đầu xe về hướng Hương An. Thêm nhiều
tiếng nổ muốn xé rách màn nhĩ tôi cùng lúc với tiếng rú thảm
thiết của một nạn nhân nào đó. Ngoái nhìn lại, một thây người
đẫm máu đang rẫy rụa, lăn lộn trên mặt đường. Và ở phía
sau xe, bốn năm binh sĩ đang lóng cóng tìm cách đu lên.
Chẳng biết cách nào khác hơn, khi trở lại Hương An, tôi cho lệnh
ghé qua Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 2, Trung tá Tấn, Trung đoàn phó, cũng
là người Tiểu Ðoàn trưởng duy nhất của Trung đoàn 2 đã dẫn
đơn vị về tới Việt Nam sau trận Hạ Lào, đón tôi với nụ cười
cay đăng quen thuộc:
- Mày biết sao không? Tấn nói. Chỉ có hai đại đội du kích huyện
Thăng bình và hai chiếc Tăng pháo lạc đường, Vậy mà cũng mất
Quảng Tín,
Tôi nhìn Tấn ái ngại: Kontum, Pleiku, Quảng Trị, Huế, Quảng Ngãi
mất khi chưa có bóng dáng một người lính Cộng Sản. Hai đại đội,
dù Du kích huyện đội, đã quá nhiều cho Quảng Tín. Nhưng dĩ nhiên
không chỉ riêng mình Tấn phẩn nộ. Hàng trăm ngàn người khác đã
và sẽ có những phẫn nộ tương tự. Vì chưa ai muốn chấp nhận
thua cuộc. Vì ai cũng đã dầy công hãm mã cho cuộc chiến mệnh
danh bảo vệ Miền Nam Tự Do. Nhưng thực chất...
Giữa lúc đó, Ðại tá Xuân, từ phía xa đi lại. Thấy tôi, ông
ta vội rẽ sang hướng khác. Tấn nhìn theo, chép miệng:
- Bây giờ thì thằng nào cũng mọp xuống như chó bị đòn. Cứ
tình hình này, chẳng biết tới đâu...Vấn đề quan hệ nhất là
tinh thần. Nhưng...mẹ kiếp !
Tôi nhìn về hướng Quảng Tín, đang rung chuyển dưới bom pháo. Bờ
mắt cợm nhức khi phóng tầm mắt dài theo con hương lộ xoáy
trúng ổ gà về hưóng tây. Bỗng dưng, tôi nhớ đến tô mì Quảng
chợ Ðàn. Ông lão 70 với gánh củi độ nhật dưới cái nắng Hạ
gay gắt.
Bà lão 80, gù lưng trên mặt cát sỏi mót những rễ khoai không lớn
hơn ngón tay cái. Những đứa trẻ gầy còm, đỏ nắng trong khu tái
định cư Quế Sơn. Bây giờ họ ở đâu? tôi nhớ đến những
chuyến bay dài mệt nhọc, não buồn của mùa hè 74, những sáng mưa
pháo Ðức Dục nhìn về phía Nông Sơn. Những chiều Ðại Lộc nhớ
tiếc Thường Ðức. Mới 5 tháng qua bao thay đổi. Không chỉ những
phố chợ, hay quận lỵ bị lấn chiếm, mà từng tỉnh, từng miền
"tái phối trí". -"ta đang dồn địch vào những cái
túi, chờ cột lại", Võ Nguyên Giáp, đã tuyên bố như thế,
trong trận Hạ Lào. Hầu hết các tỉnh lỵ, và ngay thủ đô
Sàigòn, cũng đang là những cái túi chờ ngày cột miệng. Ngày
nào...?
Tấn cười chua lạnh tiếp:
- Mấy ngày nay moa lẩm cẩm như một ông già. Ðêm nằm một mình
lan man nghĩ lại từng trận đánh lớn nhỏ, từ ngày trên cổ còn
vàng choé nước mạ cặp lon Chuẩn úy. Biết bao nhiêu thằng bạn,
bao nhiêu thuộc hạ của mình đã thương vong, bị ném trả về gia
đình với tấm thân tàn phế...Ai ngờ mười lăm năm mồ hôi, xương
máu để có ngày này...
Chiều xuống thấp dần. Dàn pháo trí trên phi trường vẫn tiếp tục
nã đạn vào Quảng Tín. Những đỉnh núi mờ xa đã trắng lạnh
khói sương. Buổi chiều thất trận nào cũng buồn và ảm đạm.
- Ở đây với tao đêm nay, Vũ - Tấn lưu luyến cầm giữ khi tôi
ngỏ ý định trở lại Ðà Nẵng.
- Kẹt. Có hẹn gọi điện thoại cho gia đình
Tấn thở dài. Tôi cố tạo cho mình giọng bỡn cợt :
- Ở đây một đêm rủi cắt đường về thì sao. Ôi ! cái thằng
ta có chết đi chẳng quan hệ. Nhưng chiếc jeep của quân đội, của
chính phủ qúi hơn. Bạn đồng ý ?
Tắm rửa cơm nước xong đã gần 10 giờ đêm. Tôi sang An Hải thăm
gia đình. Một người bạn cùng đơn vị cũ đã hứa dành cho tôi
6 chỗ trên chiếc tàu sẽ chở toán hậu trạm của Sư Ðoàn Dù từ
Ðà Nẵng về Sàigòn, theo dự định sẽ nhổ neo vài ngày tới.
Sáu chỗ cho hơn 100 người giả trẻ- nhưng khả năng tôi chỉ có
thế, biết sao hơn ? Hy vọng các anh tôi tại ngủ, sẽ tìm được
phương tiện riêng. Ghé qua bến tàu Ðà Nẵng, đón Lưu, một nhân
viên cũ ngày còn ở Pháo Dù. Mọi người đang tụ họp trong nhà
bác Tư tôi, bàn bạc việc di tản vào Sàigòn. Vali, hòm xiểng đã
chuẩn bị sẵng sàng.
Tôi báo tin xin được 6 chỗ, dự định dành cho vợ chồng bác Tư,
người con trai út của bác, hai bà bác dâu khác, và anh Ngọc, người
anh họ, giáo sư Phan Chu Trinh Ðà Nẵng. Lưu sẽ có nhiệm vụ
thông báo khi tàu cập bến và lo lắng cho mọi người. Cả nhà
bà bác dâu tôi đều mếu máo đòi ở lại, đi chung với các con,
các cháu.
- Mang nhau vào đây, tới ngần này tuổi, bỏ chúng nó mà đi sao
được - Người bác dâu thứ tư vụng về chấm nước mắt nói -
Ðể bác trai với thằng Oanh đi trước. bác Tư tôi cười nhợt nhạt,
lạnh buồn:
- Ai ngờ 20 năm còn phải di cư thêm một lần nữa. Tôi cúi đầu
im lặng, nhờ anh Ngọc ghi tên tuổi và số thẻ căn cước mọi
người. Rồi để tránh cảnh tượng buồn thảm và cũng cần gởi
bài về Sàigòn, tôi đứng dậy cáo từ về khách sạn.
Gần nửa đêm, giữa lúc tôi đang viết những dòng cuối của bài
phóng sự, tiếng đập cửa bỗng vang lên thúc bách. Một toán
lính đồ rằn đứng lố nhố trước hàng hiên khách sạn.
Chúng thuộc đám tàn
quân đầu tiên vừa từ Huế kéo về, hay một toán Biệt Ðộng Ðội
Cộng sản ? Quản lý và bồi phòng tái xanh khiếp đảm, vội chui
vào phòng riêng, khóa cửa thật kỹ. Bọn lính chửi thề tục
chưởi, xô đạp cửa sắt, gây náo động trọn khu phố, kông
kênh nhau leo lên ống máng lên lầu.
Dưới áp lực của súng đạn , quản lý phải đưa chúng đi khám
xét từng phòng. Ðàn bà, con gái, ngoại trừ những bà già, dĩ nhiên,
được chúng lùa vào những phòng trống, bất kể gái ăn sương,
hay dân tị nạn. Tội nghiệp nhất là một gia đình Huế, đang chờ
phương tiện vào Sàigòn, Người con dâu và hai cô con gái đã bị
chúng luân phiên hãm hiếp suốt đêm. Bao nhiêu vốn liếng
mang theo cũng bị lũ qủi dữ vét sạch.
Gần sáng chúng mới bỏ đi. Khách sạn như qua cơn ác mộng. Ngồi
trước những trang giấy trắng, lòng tôi chừng sát muối. Những
ngày giờ ngột ngạt kinh hoàng của Huế trong dịp Mậu Thân 68, rồi
mùa Hè 72, với những cảnh cướp bóc, hãm hiếp cũng do chính những
tên bại binh đốn mạt tương tự khiến tôi rùng mình hoảng kinh.
Ở một thoáng sát-na tâm động, qủa thực chẳng còn một phép lạ
nào cho Ðà Nẵng. Bọn tàn binh kia khi nghe tiếng pháo đã run rẫy
hãi kinh, cắm đầu trốn chạy. Nhưng ở đây, lúc này, đã và
đang biến thành những kẻ cướp có vũ khí của chính phủ, ra sức
phá vỡ những ảo tưởng cuối cùng về Tự Do, và hy vọng được
che chở, bảo vệ mà hàng triệu người dân giới tuyến mong đợi.
Những con chiên ghẻ "Cọp biển", "Cọp rừng"- từng
được ngợi ca không tiếc lời trên báo chí, trên các hệ thống
truyền hình, truyền thanh bao năm qua- đang mang theo với chúng về
thành phố sự hung bạo khởi sinh từ một mặc cảm hèn nhát, bại
trận. Can nguyên sát nhân, trộm cướp của những bản án trong dĩ
vãng- dưới lớp áo trận, và bên ngoài vòng thành tù ngục mà
chúng mới được tạm phóng thích để bổ sung quân số - đã đưọc
hồi sinh. Nên sẽ không chỉ có ba người con gái Huế bị hãm hiếp
đêm nay. Không phải chỉ dăm bảy người bị lột đồng hồ tay,
nhẫn cuới cùng tiền bạc. Sẽ còn nhiều thảm cảnh khác nữa
cho trọn nghĩa đau thương, khổ nhục một đời da vàng, trong cuộc
chơi tàn nhẫn của những gã phù thủy không tim.
Nguyên Vũ
(trích bút ký Xuân Buồn Thảm)