Vit tc có ch viết không ?

 Nguyn Thành Đ

 Kính dâng bài khảo cứu này lên Tổ quốc Việt Nam

  Tổ Tiên Bách Việt

 

 

 

 

 

         

 

 

 

 

 

 

 

 

 

I-Dẫn Nhập :

 

Con người phát triển trước tiên tiếng nói để thông hiểu nhau trong đời sống hằng ngày, trao đổi nhau tư tưởng để xây dựng xă hội tiến bộ và một nền văn minh tốt đẹp cho ngày mai. Khi loài người đă tiến đến một tŕnh độ khá cao, con người phát minh ra chữ viết để ghi lại tư tưởng và quan niệm cho con cháu hậu thế. Việt tộc có một nền văn hóa cao như khảo cổ đă chứng minh, nhưng con cháu chưa bao giờ thấy chữ viết của cha ông để lại mặc dù cổ sử Trung Quốc chép nước Việt Thường dâng Đế Nghiêu (2358 TCN) một  con rùa 1000 năm trên mai có chữ khoa đẩu (chữ con ṇng nọc) kể lại sự tạo thiên lập địa trở về sau và viết sách để lại cho thế hệ con cháu trong tiến tŕnh dựng nước và giữ nước. Chữ Hán chính thức nh́n nhận có vào năm 1300 TCN cuối đời Thương, tức là 1058 năm sau chữ khoa đẩu. Nhiều nhà trí thức Việt Nam cũng quả quyết rằng Việt tộc có chữ viết riêng trước khi người Tàu xâm chiếm nước ta. Nhưng không một ai có bằng chứng thuyết phục cả! Giáo sư Vũ Văn Mẫu trong sách “Cổ Luật Việt Nam và Tư Pháp Sử” (Saigon 1973) đă viết “Người Việt chúng ta có một lối chữ viết riêng (chữ khoa đẩu) trước khi người Tàu xâm lược nước ta…”. Nhà học giả Trương Vĩnh Kư cũng có cùng một ư kiến và thêm rằng chữ viết ta là chữ tượng thanh (phonetic). Giáo sư Lương Kim Định viết rằng đất Trung Nguyên có nhiều kiểu chữ viết mà nổi hơn cả là “chữ ṇng nọc” và trước nữa là chữ chân chim (điểu tích tự). Hai chữ này tượng trương cho hai vật biểu Rồng Tiên của dân ta có từ họ Hồng Bàng. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước cuối cùng cũng thống nhất chữ viết luôn. Ông ra lệnh đốt tất cả sách Phật giáo viết bằng chữ khoa đẩu của Việt tộc và chôn sống Nho sĩ nào cố cất giữ các sách cổ đó. Trên đường t́m chữ viết, chúng tôi đặc biệt chú ư đến hai sử kiện quan trọng sau đây:

    1-Lư do nào người Tàu không bao giờ cho dân Việt biết h́nh dáng của chữ viết của dân Việt?

    2-Lư do nào Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt tất cả sách viết bằng chữ khoa đẩu của Việt tộc và chôn sống Nho sĩ nào cố cất giấu các sách cổ đó?

 

Những sự thật này có thể là ngọn hải đăng dẫn đường chúng ta t́m được lại chữ viết của Việt  tộc. Nghiên cứu cổ sử Trung Quốc, các chứng tích khảo cổ học do các nhà khảo cổ Trung Quốc t́m được ở Trung Quốc và Madelaine Colani ở vùng Văn Hóa Ḥa B́nh Việt Nam năm 1923, chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn, chữ Việt bộ Mễ và chữ Việt bộ Tẩu, sách “Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt 1989” của Giáo sư Vũ Thế Ngọc và chữ viết Việt tộc được t́m lại tại tỉnh Vân Nam Trung Quốc năm 2010 cho phép chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng chữ viết Việt tộc đă được t́m lại. Chúng tôi tŕnh bày sự hiện hữu của chữ viết Việt tộc (chữ khoa đẩu) bằng những chứng vật do khảo cổ học đào quật ở vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều ở Trung Quốc, vùng Văn Hóa Ḥa B́nh ở Việt Nam, chữ viết trên các đồ đồng Đông Sơn và lệnh của Chu Tuyên Vương (827 TCN-782 TCN) sai Thái sử Trửu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ Đại triện (tiền thân của chữ Hán).

 

II-Chữ viết Việt tộc trong cổ sử Trung Quốc :

Cổ sử Trung Quốc nói nhiều về chữ viết của Việt tộc nhưng không bao giờ cho dân Việt biết h́nh dạng của chữ đó như thế nào cả suốt hơn 3.000 năm.

    

    1-Khổng An Quốc cháu 12 đời Khổng Tử viết trong lời tựa sách Thượng Thư (Kinh Thư):

 

“… thời Lỗ Công Vương, thích sửa sang cung thất, Vương cho phá nhà của Khổng Tử để mở rộng thêm. Trong tường nhà t́m được Thư, phần Ngu, Hạ,Thương, Chu cùng Tả Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh, đều viết bằng chữ khoa đẩu cổ văn do ông cha chúng tôi cất giấu. Lối chữ khoa đẩu bỏ từ lâu, người đương thời không ai đọc được nữa, phải lấy sách nghe được ở Phục Sinh khảo luận văn nghĩa, định chỗ nào đọc đươc, dùng lối chữ lệ cổ viết sang thẻ tre, nhiều hơn sách của Phục Sinh hai mươi lăm thiên”

(Khổng Tử, Kinh Thư- Bản dịch của Trần Lê Sáng và Phạm Kỳ Nam)”.

 

 

Ta nhận thấy chữ hoa đẩu được gọi là Cổ Văn. Nó đă được dùng để viết sách quan trọng như Kinh Thư, Tả Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh trước Khổng Tử.

 

    2-Hậu Hán thư-Lô Thực truyện viết :

 

“Cổ Văn khoa đẩu: Nhan Sư xưa có chú : Cổ Văn là sách trong vách nhà Khổng Tử. Văn tự ấy h́nh nó giống con khoa đẩu (ṇng nọc) nên lấy con ấy mà đặt tên gọi  là chữ khoa đẩu.” Chữ khoa đẩu cũng gọi là Cổ Văn.

 

    3-Tân thư Vệ Hằng truyện nói :

 

“Thời Hán Đế, Lỗ Cung Vương phá nhà Khổng Tử lấy được Thượng thư, Xuân thu, Luận ngữ, Hiếu kinh. Người đương thời không biết khôi phục lại chữ viết cũ của họ Hùng nên họ gọi là chữ khoa đẩu

 (Lăn Miên, Dân gốc bản địa Đài Loan có chữ viết không?).

 

Vậy chữ khoa đẩu là chữ viết cũ của  Hùng Vương. Thêm nữa, Xuân thu là sách do Khổng Tử soạn thảo bằng chữ khoa đẩu. Vậy chúng tôi có lư do chính đáng tin rằng chữ chữ Hán thời đó là chữ khoa đẩu. Đó là “Lổ Hổng Lịch sử Trung Quốc  trong âm mưu che giấu chữ viết Việt tộc v́ họ sợ lộ tẩy sự thật rằng chữ khoa đẩu chính là chữ người Tàu mượn để gọi là chữ Hán.

 

    4-Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có ghi: “Cương Mục Tiền Biên của Kim Lư Tường chép rằng : Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu (2357 TCN-2358 TCN) Việt Thường thị sang chầu, dâng con rùa thần.” Các sách cổ của Tàu cũng chép rơ :

 

Trên mai rùa thần này có chữ viết liên hệ đến nguồn gốc Kinh Dịch. Vậy Kinh Dịch có trước Đế Nghiêu. Sách “Thông Chí” của Trinh Tiếu đời Tống (960-1270) viết : “Rùa thần này có lẽ sống tới ngàn năm. Trên lưng có văn khoa đẩu ghi lại việc từ khi trời đất mới mở mang về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Qui Lịch (Lịch Rùa).” Nếu vua Nghiêu là vua Tàu th́ ông không có chữ viết để chép lại Lịch Rùa. Nếu lịch rùa được chép lại th́ phải dùng chữ khoa đẩu chứ không phải chữ Hán nào cả. Suốt đời nhà Thương (1600 BC -1050 BC) không có sử viết để lại chứng minh là chữ Hán được phát minh ở thời đó. Lịch sử nhà Thương được viết lại nhiều thế kỷ sau khi nhà Thương bị tiêu diệt. Sự thật th́ sử viết của Trung Quốc được viết lại đầu tiên do Tư Mă Thiên năm 109 BC.

 

    5- Chu Tuyên Vương (827 TCN- 782 TCN) sai Thái Sử Trửu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ Đại triện. Đó là sự bắt đầu của chữ Hán. Chúng tôi có thể chứng minh rằng chữ Đại triện chính là chữ khoa đẩu bằng toán học hay tam đoạn luận.

 

    6-Truyện Thủy Hử có ghi lại các anh hùng Lương Sơn Bạc t́m được bia đá có khắc chữ “Thiên Thư”. Tống Giang thấy chữ ngoằn ngoèo khác hẳn lối thường, không c̣n ai biết nghĩa lư ra sao cả. Đạo tràng Diệu Thông dịch các chữ khoa đẩu trên bia đá giúp Tống Giang,

(Hoàn Tuấn trong văn minh Lạc Việt 2007).

 

 

    7-Kiếm Câu Tiễn (498 TCN-465 TCN): Năm 1965, người ta đào được một thanh bảo kiếm bằng đồng sâu dưới đất trên 2.000 năm. Nhưng kiếm vẫn c̣n sắc bén và bóng láng. Sau hai tháng thảo luận sôi nổi, các nhà khảo cổ nổi tiếng Trung Quốc gồm cả Quách

Mạc Nhược đồng ư tám chữ khắc trên kiếm là “Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Kiếm” viết bằng chữ Mân ngữ. Sau khi nước Việt bị nước Sở thôn tính, con cháu Việt Vương Câu Tiển tiếp tục triều đ́nh ở Phúc Kiến gọi là Mân Việt. Tự điển hiện tại và văn khố ngày xưa đều ghi rơ Mân là Việt, là Mân Việt. Tiếng Mân Việt trải dài từ Hàng Châu, Phúc Kiến, Triều Châu, bán đảo Lôi Châu, qua Đài Loan, đảo Hải Nam…nước Việt Nam và đảo quốc Singapore. Mân ngữ là một ngôn ngữ địa phương mạnh nhất trong 8 phương ngữ ở Trung Quốc. Vậy chữ viết trên kiếm là chữ Việt (khoa đẩu) viết theo lối “Điểu Trùng Văn” (“birds and worms characters”), kiểu chữ khó đọc. Ta nhận thấy dạng chữ khoa đẩu “Vương” lộ ra (H́nh 1c) nếu ta cắt bỏ phần trên của chữ Vương trên kiếm (H́nh 1b) :

Việt Vương Câu Tiển Tự Tác Dụng Kiếm (498 TCN-465 TCN) (a)

 

 

b                                                                             

                                                                           

                                                                                

                                                                                                                                         

                                                                                                   (c)

Chữ khoa đẩuVương(b)    

Chữ khoa đẩu Vương (c)                   

(Chữ kiểu Điểu Trùng Văn)   (Dạng chữ Vương hiện ra khi cắt (a)  bỏ phần trên của chữ Vương kiểu    

 

          

H́nh 1 : Việt Vương Tự Tác                            

điểu trùng văn trên kiếm)

(Bốn chữ trên kiếm của Việt Vương Câu Tiễn

viết theo kiểu chữ “Điểu Trùng Văn”)

 

Chữ viết trên chiếc bảo kiếm của Việt Vương Câu Tiễn này là nhân chứng hiếm hoi c̣n lại về h́nh dáng chữ khoa đẩu của Việt  tộc mà người Tàu t́m mọi cách giấu kín hơn 3.000 năm. Cổ sử của Trung Quốc là nhân chứng cho lịch sử của chữ viết Việt tộc hiện hữu thật sự và được dùng viết sách truyền lại cái văn hóa cho con cháu.

 

III-Lịch Sử Văn Hóa và Chữ Viết ở Trung Nguyên Trước Nhà Thương Đến Nhà Hán:

 

Nhiều nhà cổ sử Trung Quốc nhất là Chu Cốc Thành trong “Trung Quốc Thông Sử” viết : “Viêm tộc (Việt tộc)có mặt khắp Trung Hoa cổ đại trước khi các ḍng tộc khác tràn vào nên viêm tộc kể như chủ đầu tiên. Khi Viêm tộc định cư rồi th́ Hoa tộc c̣n sống đời sống du mục tại Tân Cương, Thanh Hải, rồi măi về sau đến đánh chiếm đất của Viêm tộc và bị Si Vưu lănh tụ của Viêm tộc chống cự. Chu Cốc Thành dẫn sách “The State” của Franz

Oppenheimer chứng minh rằng từ cổ chí kim dân định cư nông nghiệp luôn luôn có văn cao nhưng vơ kém. Sau khi Si Vưu tử trận, Hiên Viên lănh tụ Hoa tộc bá chiếm sáu tỉnh lưu vực sông Hoàng Hà mà lập ra nước Tàu. Ông liền phỏng theo sinh hoạt của Viêm tộc mà tổ chức xă hội Hoa tộc.”

Vậy Hoa tộc là một bộ lạc bán khai, du mục, gốc Turk lai Mông Cổ, với một nền văn hóa truyền khẩu (không có chữ viết), đến từ Tây Bắc, sống đời sống du mục tại Tân Cương và Thanh Hải. Măi về sau mới đánh chiếm đất của Bách Việt kể từ 1600 TCN. 

Giáo sư Lương Kim Định tóm tắt hai sách mới nhất “The Origin of the Chinese Civilization (Berkely 1980) và “The Chinese Heritage” do ông K.C. Wu (1982). Ông viết: “Văn hóa đời nhà Thương phát xuất từ Hoài Di, tức là Di Việt. Cho đến hết nhà Thương chưa có ǵ gọi là văn hóa Tàu. Tất cả c̣n là Di”

.  

1-   Việt Tuyệt thư :

 

Ông Đổ Thành, người Triều Châu, viết trong “Bách Việt Sử : Những Lớp Bụi Mờ của Lịch Sử”cho biết Việt Tuyệt thư hay Việt Tuyệt kư là tài liệu thời Xuân Thu-Chiến Quốc (770 TCN – 480 TCN), trước Sử Kư của Tư Mă Thiên (100 TCN), viết bằng chữ tượng h́nh như “Việt Cổ Văn” và “Trung Văn” ngày nay. Cổ thư này c̣n mang tên là Việt Chép và chép lại sử của Việt tộc. Nhờ Việt Tuyệt thư mà sau này Tư Mă Thiên và nhiều sách sử khác có tài liệu về nguồn gốc Bách Việt bên cạnh những truyền thuyết. Tài liệu này viết: “Chữ viết và Văn hóa của nhà Thương đều là kế tục của nhà Hạ.  Chữ viết trong Chung Đỉnh Văn và Giáp Cốt Văn của khảo cổ học chứng minh được điều này. Kẻ chiến thắng chiếm đoạt tài sản của kẻ chiến bại là việc đương nhiên gồm cả bắt dân Việt làm nô lệ, chiếm đất nước và thổ sản thiên nhiên, văn hóa và chữ viết như quân La Mă chiếm đoạt vần A, B, C của dân bị trị Etruscan để phiên âm tiếng nói dân La Mă ở Âu Châu.  Nhà Thương thôn tính và đồng hóa người Siberia da trắng “Trung Sơn Quốc” gọi là “Bạch Địch” … Nói chung nhà Thương bao gồm Việt tộc và những ngoại tộc bị Việt tộc đồng hóa…, ngay cả tên của Trụ Vương… cũng được ghi chép lại là Đế Tân theo văn phạm Việt chứ không phải là Tân Đế theo văn phạm Tàu. Triều nhà Chu cũng bị Việt tộc đồng hóa. Tộc Chu là tộc Khương đă liên kết với những tộc khác tiêu diệt nhà Thương. Trước khi lật đổ nhà Thương, trên đường Đông tiến từ cao nguyên phía Tây về Trung Nguyên là họ đă bị Việt đồng hóa rồi. Họ đổi tên xưng là Chu .Chữ Chu gồm chữ Điền trên + chữ khẩu dưới, tức là miệng sống nhờ lúa. Nhà Chu không nói tiếng Khương nữa như dân tộc Khương hiện tại. Họ nói tiếng Việt gọi vào thời đó Nhă Ngữ (Nhă là đẹp). Tiếng Khương của dân tộc Khương vẫn c̣n tồn tại đến ngày nay. Đối chiếu tiếng Khương với cổ sử, Tứ thư và Ngũ kinh cho thấy nhà Chu đă bị văn hóa Việt của nhà Hạ và nhà Thương đồng hóa. Triều Chu tự xưng là con cháu đích tôn của vua Vũ nhà Hạ để được “chính danh”. Hạ là tên Hoàng Triều. Hoa (hoa lệ) là tên quí tộc. Khi nhà Chu muốn thiên hạ quy phục ḿnh, họ tự xưng là “Hoa-Hạ”. V́ văn hóa và ngôn ngữ Việt đă đồng hóa Thương, Chu, Yến và Ngụy (người Siberi thời Xuân Thu-Chiến Quốc) cho nên tiếng Việt có thêm một nhánh mới phía bắc mà ngày nay người ta gọi là tiếng Bắc Kinh hay Mandarin. Hai thứ giọng pha trộn gây ra biến âm khó thông với nhau. Người ta chọn tiếng Việt phía nam làm tiếng “tiêu chuẩn” cho tiếng “phổ thông” dùng cho thời đó. Tiếng Việt để “phổ thông” thời đó được gọi là Nhă Ngữ . Khổng Tử dạy học bằng tiếng Nhă ngữ. Vậy Khổng Tử viết và nói tiếng Việt. Ngài soạn sách Xuân Thu của

ngài bằng chữ khoa đẩu theo Tân thư Vệ Hằng truyện. Nhă ngữ c̣n tồn tại cho đến ngày nay ở tỉnh Quảng Đông. Sách “Thuyết Văn” của Hứa Thận biên soạn thời Hán phải đọc phần đánh vần bằng tiếng Việt. Nếu ai đọc sách đó  theo giọng Quan thoại-Bắc Kinh-Madarin th́ sẽ không đánh vần được rất nhiều chữ. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ th́ tiếng Việt Nhă Ngữ được Triều đ́nh “qui định” để dùng thống nhất hóa chữ viết và tiếng nói cho toàn thể Trung Quốc. Ông Đổ Thành kết luận “Quá nhiều bằng chứng và quá rơ ràng là trước đây từ Hán, Tần, Xuân Thu-Chiến Quốc, Chu, Thương, Hạ, Ngũ Đế, Tam Hoàng, vân… vân… xa xưa, văn hóa và ngôn ngữ là Việt.  

      

    2-Chữ Việt tượng h́nh cái Ŕu đời Thương :

Chữ Việt tượng h́nh cái ŕu đời Thương (H́nh 2) do người Tàu  tráo đổi bằng cách  “khéo léo” tách rời phần dưới (cái móc) của chữ Việt này   là chữ thứ  nh́  trong thư  tịch Trung Hoa (ta gọi là chữ Việt bộ Mễ, nhưng Tàu gọi chữ Việt bộ Nguyệt).  Chữ Việt bộ Mễ  vào đời nhà Thương phải là chữ khoa đẩu của Việt tộc mà nhà Thương thừa hưởng sau khi diệt nhà Hạ (Việt Tuyệt thư). Mục đích của sự tráo đổi chữ Việt bộ Mễ này thành chữ Việt tượng h́nh cái Ŕu đời Thương (H́nh 2) để gây ảo tưởng là : 1- Nhà Thương cũng phát minh ra chữ tượng h́nh. 2- Họ đă đặt tên Việt cho dân Việt. Tên Việt có lâu đời từ trước trong tên nước Việt Thường, chủng Bách Việt. 3- Che giấu sự thật là Việt tộc đă có chữ Việt bộ Mễ (lúa) ở trên và cái móc h́nh lưởi hái (dùng để cắt lúa) ở dưới từ lâu trước khi nhà Thương chiếm đất của Bách Việt v́ Việt tộc phát minh lúa nước trước nhất thế giới nên tổ tiên Việt thể hiện cái lịch sử vinh quan đó trên chữ Việt. 4-Đưa các học giả Việt Nam gồm cả B́nh Nguyên Lộc vào cạm bẫy về giả thuyết cái tên Việt có liên hệ đến cái Ŕu ở Quốc Oai.

                                                                

 

 

 

 

 

 

 

 

 

           H́nh 2 : Chữ Việt tượng h́nh đời Thương là sự tráo đổi bằng cách chỉ lấy cái móc (h́nh lưỡi hái) của chữ Việt bộ Mễ của Việt tộc.

 

Ngoài Việt Tuyệt thư, qua “Lỗ Hổng Lịch Sử Trung Quốc”, chúng tôi nhận thấy có nhiều dấu hiệu trong đời sống hằng ngày thời đó đưa đến kết luận rằng tất cả các nước ở Trung Nguyên như Sở, Lỗ, Việt, Ngô, Tần, Tề… đều có cùng một thứ chữ viết và một ngôn ngữ với một số biến đổi tùy theo mật độ hợp chủng và pha trộn văn hóa của từng địa phương. Bằng chứng là : a- Tất cả nhà học giả trước, đồng thời và sau Khổng Tử đều biết đọc và viết chữ khoa đẩu của Việt tộc một cách thành thạo. b- Nhiều sách cổ quan trọng như Kinh Thư, phần Ngu (Đế Thuấn), Hạ, Thương, Chu cùng Tả Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ khoa đẩu. c- Chính Khổng Tử soạn thảo sách Xuân Thu của ngài bằng chữ khoa đẩu theo Tân thư Vệ Hằng truyện. Chúng tôi có lư do chính đáng tin rằng cái gọi là chữ “Hán” đang xử dụng đương thời thật sự  chữ khoa đẩu (Việt Tuyệt thư). d- Các học giả ở nước Lỗ, Sở, Việt, Ngô, Tần, Tề… đều thấm nhuần tư tưởng của Khổng Tử th́ họ phải có cùng một chữ viết và tiếng nói với nước Lỗ. e- Khổng Tử dẫn học tṛ đi chu du khắp Trung Nguyên để phổ biến tư tưởng của ngài và xin phục

vụ cho các vương quốc khác nhau. Nếu các vương quốc và dân chúng của các nước đó không có cùng chữ viết và tiếng nói như nước Lỗ th́ ngài phổ biến tư tưởng của ngài cho

ai? phục vụ cho vương quốc nào?  Đó là t́nh h́nh văn hóa và chữ viết trên thực tế từ trước nhà Thương xâm chiếm đất của Bách Việt cho đến sau thời nhà Hán.

Thực tế văn hóa này được Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia chứng nhận với bài “Chữ Hán và Kư hiệu” (Chinese Scripts and Symbols) : “… trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất chữ viết năm 221 TCN, các nước ở Trung Nguyên (China) có cùng một thứ chữ viết mà mà họ có thể hiểu lẫn nhau (mutually comprehensible) và một số chữ ngoại lệ của mỗi nước (deviations)”. Tài liệu này minh chứng hùng hồn rằng giả thuyết của chúng tôi là đúng, nghĩa là tất cả các nước ở Trung Nguyên xử dụng cùng một thứ chữ viết và nói một thứ tiếng nói với vài thay đổi theo từng địa phương. Tần Thủy Hoàng không tiêu diệt chữ viết của một nước nào cả mà chỉ thống nhất các chữ ngoại lệ cuả các nước đó  thôi. Tóm lại Chữ viết, Văn hóa và Ngôn ngữ của Việt tộc được các nước ở Trung Nguyên xủ dụng từ trước nhà Thương đến nhà Tần và nhà Hán.

 

IV- Lịch Sử và Nguồn Gốc Chữ Hán :

Lịch sử chữ Hán có nhiều uẩn khúc pha trộn chuyện thần thoại với giả thuyết trái ngược của các nhà khảo cổ làm cho người đọc không biết đâu là thật đâu là giả.  Truyền thuyết Trung Quốc cho rằng Hoàng Đế, Thương Hiệt (sứ quan của Hoàng Đế) và Phục Hi phát minh ra chữ Hán vào khoảng 2650 TCN. Nhưng chưa bao giờ khảo cổ học t́m thấy chữ Hán trước 1300 TCN cả. Tất cả phương pháp khoa học chứng minh rằng Hoàng Đế, Đế Nghiêu, Đế Thuấn là những nhân vật thần thoại tạo dựng lên vào cuối đời nhà Chu (Giáo sư Lương Kim Định).

Bách khoa toàn thư Wikipedia viết (16-09-2009) : “Triện thư là chữ cổ của thư pháp Trung Quốc . Nó có nguồn gốc từ chữ giáp cốt thời Chu (1050 TCN-256 TCN) và phát triển ở nước Tần (221 TCN - 207 TCN) trong thời Chiến Quốc (480 TCN - 221 TCN). Đó là chữ viết chính thức cho toàn thể Trung Quốc dưới thời nhà Tần và nhà Hán”.

Đây là một nhận định thiếu căn bản lịch sử và không có cơ sở khoa học, v́ chữ giáp cốt c̣n nằm sâu dưới đất từ 1300 TCN đến 1899. Từ 1050 TCN đến 1899 là 3.050 năm chưa ai biết có chữ giáp cốt th́ làm sao Triện thư có nguồn gốc từ chữ giáp cốt đời Chu được?

Cổ sử chép Chu Tuyên Vương (827 TCN - 782 TCN) ra lệnh cho Thái sử Trửu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ Đại triện để viết lịch sử Tàu. Tự Điển Việt Hán Nôm giới thiệu sơ lược lịch sử văn tự Hán Nôm viết : “Chữ Triện ra đời vào khoảng năm 826 TCN - 827 TCN, là sản phẩm của quan Thái sử Trửu thời Chu Tuyên Vương sáng tạo ra”.

Giáo sư Vũ Thế Ngọc viết trong sách “Nghiên cứu chữ Hán vá tiếng Hán Việt 1989” rằng “Khoảng 800 TCN, Thái sử họ Lưu nhà Chu goị Cổ Văn (chữ khoa đẩu) bằng Đại triện và dùng chữ  này vào việc viết sử”. Ba nguồn cổ sử này chứng minh chữ Hán xuất

 hiện với sự ra đời của chữ Đại triện vào năm 827 TCN. Tuy nhiên, người Tàu không bao giờ nhận sự thật này. Từ cuối đời Đông Hán, các học giả Trung Quốc như Liu Desheng

(147-188), Wang Xizhi (151-230), Ouyang Xun (157-641) tiếp tục cải thiện và hoàng tất chữ Hán mà ta thấy ngày nay. Năm 1909, Lu Feikui đề nghị đơn giản hóa chữ Hán. Đến năm 1956 và 1964, nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc cho phát hành hai Bản Hán

Tự giản thể. Vậy ta thấy rơ cho đến nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc chữ Hán mới bắt đầu thoát ly khỏi chữ khoa đẩu.

 

V- Khám Phá Chữ Giáp Cốt Năm 1899 :

Năm 1899, ông Wang Yrong một viên chức  Bắc Kinh ngă bệnh được cho toa mua thuốc có “xương rồng” (dragon bone). Ông t́nh cờ thấy xương rồng có khắc chữ viết giống chữ Hán. Vậy ông Wang Yrong là người Tàu đầu tiên thấy chữ Giáp Cốt. Sự t́nh cờ này đă dẫn đến sự khám phá chữ Giáp Cốt (Oracle Bone Scripts) ở Anyang tỉnh Henan. Giáo sư Vũ Thế Ngọc trong sách “Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt 1989” viết: “Khảo cổ học đă khai quật gần 5.000 chữ Giáp Cốt ở cuối đời nhà Thương 1300 TCN. Những chữ này đă đạt đến giai đoạn “hội ư” mà không qua các giai đoạn căn bản thuần túy tượng h́nh và chỉ sự nào cả… Thật ra cho đến nay, gần thập niên cuối cùng trước khi bước sang thế kỷ 21,vấn đề nguồn gốc chữ Hán vẫn là một vấn đề chưa được giải đáp trọn vẹn. Nhưng phân tách th́ ta thấy một số lớn chữ đó đă được viết theo nguyên tắc nghiêm ngặt : chữ đă phát triển tới giai đoạn hội ư, vượt xa giai đoạn căn bản thuần túy tượng h́nh và chỉ sự. V́ vậy chữ này phải có một giai đoạn tiền thân sơ khai hơn nữa. Nhưng cho đến nay (1987) chúng ta c̣n chưa phát hiện ra.

“Cho đến những năm gần đây th́ giới khảo cổ học, đặc biết là ở Lục địa Trung Quốc vẫn đang cố gắng t́m kiếm câu trả lời dứt khoát về nguồn gốc chữ Hán và người ta đă tưởng là t́m được. Nguyên là khi khảo cổ học t́m ra các chứng tích cổ vào hạng nhất Trung Quốc được gọi chung là nền Văn Hóa Ngưỡng Thiều cổ đến 4000 năm trước Tây Lịch . Trong một số đồ đất người ta nhận thấy có một số h́nh vẽ và kư hiệu rất có thể có khả năng là cơ sở cho các chữ tượng h́nh nguyên thủy. Nhiều nhà khảo cổ và cổ ngữ học Trung Quốc đă cho rằng những h́nh vẽ hoặc hoa văn này chính là tiền thân của các chữ tượng h́nh Trung Quốc”. 

Các nhà khảo cổ quốc tế và một số nhà khảo cổ Trung Quốc như Qiu Xigui (2000 tr.31) không chấp nhận là chữ Hán có liên hệ với nền Văn Hóa Ngưỡng Thiều. Qiu Xigui viết : “Chúng ta không có căn bản nào để nhận những h́nh vẽ trên đồ gốm, xương thú hay mai rùa là chữ viết và lư do nào để kết luận chúng là nguồn gốc của chữ viết đời Thương”.     

 

VI- Khảo Sát Chữ Giáp Cốt Trên Căn Bản Lục Thư :

Ngoài sự thiếu hoàn toàn chữ tượng h́nh, Giáo sư Vũ Thế Ngọc cũng không thấy  bước sơ khởi nào đi đến phát minh chữ giáp cốt trong vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều, ông viết : “Tuy nhiên kể từ thời Ngưỡng Thiều đến đó, là gần 3.000 năm mà trong suốt 3.000 năm ta không thấy bất cứ một chứng liệu nào chứng tỏ sự sáng tạo liên tục từ các h́nh vẽ hay dấu hiệu thời Ngưỡng Thiều tiến đến các lối văn tự xuất hiện gần cuối đời Thương (1300 TCN). Khoảng trống 3.000 năm đó đủ đánh đổ giả thuyết có sự liên hệ giữa hai bên”.

 Sự phân tích khoa học này chứng minh hung hồn rằng chữ giáp cốt không được phát minh trong ṿng 3.000 năm tại vùng văn hóa Ngưỡng Thiều mà có lẽ chúng được để lại đây bởi một dân tộc nào khác. Vậy người Tàu không phát minh ra chữ giáp cốt cuối đời Thương như họ tự nhận.

Để giúp cho dễ hiểu tiến tŕnh phát minh chữ viết, chúng tôi xin vắn tắt tŕnh bày cách thành lập chữ viết chung cho mọi dân tộc trên thế giới và riêng cho chữ Hán.

 

    1-Cách thành lập chữ viết chung cho mọi dân tộc :

Con người nguyên thủy hợp lại từng nhóm lớn nhỏ khác nhau. Họ phát ra những âm thanh mà không ai hiểu ai cả. Họ chỉ giao dịch với nhau bằng cách ra dấu tay hay dấu

chân. Dần dần một người có uy tín trong nhóm chỉ vào một cái cây và phát ra một âm thanh như “cây”. Cả nhóm nhận đó là tên của cái cây. Cứ như thế với thời gian họ tạo ra một ngôn ngữ cho gia đ́nh hay bộ lạc. Hằng ngày họ giao dịch với nhau và truyền cho nhau cái hiểu biết, kinh nghiệm, những suy tư hiện tại hay tư tưởng sáng kiến cho ngày mai. Khi con người phát triển một nền văn hóa cao, họ phát minh ra chữ viết để lưu lại những tư tưởng quan trọng cho con cháu hậu thế.  Cũng như phương pháp tạo tiếng nói, con người “vẽ ra một cái cây thật đơn giản” để tượng trưng cho chữ viết của cái “cây”. Ta gọi nó là chữ tượng h́nh (pictogram). Rồi muốn diễn tả cái rừng, con người vẽ hai cái cây sát nhau theo một thể lệ mà cả nhóm chấp thuận. Đó là chữ “hội ư” (ideogram). Mỗi dân tộc có một phương pháp riêng để tạo chữ viết của họ. Trong sự phát minh ra chữ viết, con người dù ở nơi nào trên trái đất đều bắt đầu vẽ ra một h́nh thật đơn giản để diễn tả cái ư họ muốn viết ra. Các h́nh đó được gọi là chữ tượng h́nh (pictogram). Rồi theo một thể lệ chung, con người phối hợp lại hai hay nhiều chữ tượng h́nh với nhau để tạo chữ mới phức tạp hơn và được gọi là chữ “hội ư” (ideogram). Đó là phương thức căn bản nhất để tạo chữ viết mà không một dân tộc nào bỏ qua được giai đoạn này, tuy mỗi dân tộc có cách riêng để phát minh ra chữ viết đặc biệt của họ. Với thời gian, họ đơn giản hóa tối đa các h́nh vẽ nói trên đôi khi chỉ c̣n lại một cái kư hiệu nào đó mà ta gọi là chữ tượng h́nh hoặc tượng thanh riêng cho mỗi bộ lạc hay dân tộc.

 

    2-Cách thành lập chữ Hán :

 

Chữ Hán khác với các chữ viết theo vần. Cách thành lập chữ Hán được khẳng định trong Lục Thư (sáu cách thành lập chữ Hán). Chúng tôi áp dụng chữ giáp cốt vào lăng kính Lục Thư để xem chữ giáp cốt có theo đúng lục thư không?  Lục thư gồm có các chữ sau đây :

 

       1-Tượng h́nh, 2-Chỉ sự, 3-Hội ư, 4- H́nh thanh, 5-Chuyển chú, 6- Giả tá.

 

1-Chữ tượng h́nh : là những chữ gốc rễ của văn tự Trung Quốc. Chúng là những chữ cơ bản “thấy sao vẽ vậy”.dụ : Mộc là cây, vẽ h́nh cái cây  .  2-Chữ Chỉ sự : là loại chữ “trông mà biết được, xem thời rơ ư” Ví dụ : chữ Mộc (cây) nếu ta thêm một gạch ngang ở trên th́ ta có chữ Mạt (ngọn) , nếu ta thêm một gạch ngang ở dưới th́ ta có chữ Bản (gốc) .  Hai chữ tượng h́nh và chỉ sự này là những chữ căn bản nhất của chữ Hán để tạo ra các chữ mới khác.  3-Chữ hội ư : được thành lập bởi cách phối hợp hai hay nhiều

chữ căn bản để tạo a chữ mới. Ví dụ: : Chữ Lâm (rừng) , thành lập bởi phối hợp hai chữ Mộc.  Chữ Sâm (rừng rậm) . thành lập bởi phối hợp ba chữ Mộc.Vy ch hi ư phi có ch tượng h́nh mới thành lập được. Nhưng chữ giáp cốt cuối đời Thương không có chữ tượng h́nh.  Nếu chữ hội ư của giáp cốt văn có thể thành lập được mà không qua chữ tượng h́nh th́ Lục Thư  trở thành “Vô Dụng”. Sự thật này chứng minh rằng Lục Thư và chữ hội ư không do người Tàu phát minh v́ không một dân tộc nào mà không bắt đầu vớí chữ tượng h́nh khi mới phát minh ra chữ viết cả. Vậy nguồn gốc chữ giáp cốt  lộ rơ khi chữ giáp cốt được cứu xét qua lăng kính Lục Thư.  Do đó chữ giáp cốt có thể  do một dân tộc nào khác đă để lại vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều chữ viết hoàn hảo của họ như Giáo sư Vũ Thế Ngọc khảo sát và phát hiện ở trên. Dân tộc đó sẽ được phát hiện ra ở khảo cổ học thứ nhất, thứ hai và hai chữ Việt bộ Mễ và chữ Việt bộ Tẩu mà nhà Thương thừa hưởng sau khi nhà Thương chiếm đất của Bách Việt.

V́ một lư do ǵ không rơ hay v́ người Tàu quen dùng chữ viết của Việt tôc trong nền hành chánh cai trị sau nhiều năm nên họ quyết định lấy chữ viết Việt tộc tạo ra chữ Hán.

Việc làm này tỏ ra thực dụng cấp thời và dễ dàng hơn là chờ đợi một thiên tài Tàu nào đó phát minh ra chữ Tàu trong nhiều thế kỷ hay thiên kỷ trong tương lai. Lịch sử cho thấy trường hợp tương tự là dân La Mă cưởng đoạt vần A, B, C của dân bị trị Etruscan để phiên âm tiếng nói của dân La Mă ở Âu Châu.                      

 

VI- Bằng Chứng Chữ Việt Tộc Tại Tỉnh Vân Nam Trung Quốc Năm 2010 :

 

Cổ sử Trung Quốc chép Chu Tuyên Vương (827 TCN-782 TCN) sai Thái sử Trửu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ Đại triện đẻ viết sử Tàu. Chúng tôi thâu thập một số chữ viết Việt cổ ở các chùa nhỏ  tỉnh Vân Nam Trung Quốc năm 2010. Chữ khoa đẩu “Phật” (H́nh 3a) được người Bắc Kinh đọc là “Phỏ” và người Quảng Đông đọc là “Phật” y như người Việt đọc vậy. Chữ khoa đẩu “Phật” sửa thành chữ Hán “Phật” (H́nh 3b) cũng phát âm “Phỏ” (âm Bắc Kinh) và “Phật” (âm Quảng Đông). Dân Vân Nam, Bắc Kinh và Quảng Đông đều nh́n nhận chúng là chữ Hán cổ. Du Miên tác giả sách “Việt Nam Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông” viết Vân Nam là vùng đất mà truyền thuyết nói rằng Mẹ Âu Cơ dẫn năm mươi con lên núi. Cổ sử Trung Quốc ghi chép dân Điền Việt (môt nhóm trong Bách Việt) sinh sống ở Vân Nam. Chữ khoa đẩu “Phật” (H́nh 3a) bắt đầu bằng hai sổ thẳng đứng nối với nhau ở đầu trên. Một trong hai nét đó được thay thế bằng một phết từ phải sang trái nằm trên nét thẳng đứng c̣n lại. Cách sửa đổi này t́m thấy trong 28 chữ khác trong số 1.000 chữ khoa đẩu mẩu của sách “Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt 1989” của Giáo sư Vũ Thế Ngọc. Chữ “Phật” trên h́nh (3b) và (3c) giống nhau hoàn toàn ngoại trừ chữ viết tay (H́nh 3b) và chữ in (H́nh 3c). Việc Chu Tuyên Vương (827 TCN – 782 TCN) sai Thái sử Trửu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra chữ Đại triện (14 VN) hoàn toàn ăn khớp với sự sửa đổi chữ khoa đẩu “Phật” thành chữ Hán “Phật” tŕnh bày ở đây.

 

 

                                                     

 

                                                                                                        

                                                                                     

 

 

H́nh 3: a- Chữ khoa đẩu       

b-Chữ khoa đẩu đổi               

c-Chữ Hán “Phật”

“Phật  thành chữ Hán “Phật”  hiện đại

 

VII-Bằng Chứng Khảo Cổ Học Thứ Nhất :

Khi thảo luận về văn minh cổ Á châu trước 1900, các nhà khảo cổ Tây phương chỉ biết có Trung Quốc và Ấn Độ mà thôi. Họ khinh khi các dân tộc khác trong vùng là lạc hậu và dă man. Năm 1923, Madelaine Colani (1866-1943) một nhà khảo cổ nổi danh Pháp khai quật một số hang động tại một vùng Bắc Việt Nam. Bà nhận thấy những chứng vật đào được khác với các nền văn minh trên thế giới nên bà đề nghị “Một Nền Văn Hóa Ḥa B́nh”. Cả thế giới đều chấp nhận đề nghị của bà. Cùng năm 1923, trong khi bà đào quật

 một hang động vùng Văn Hóa Ḥa B́nh, bà t́m thấy hai chiếc điă gốm nhỏ ở chân núi Lam Gan có khắc hai chữ Sĩ và chữ Thượng.Nhưng niên đại cuả hai chiếc điă nhỏ ấy là

8000 TCN, thời gian mà người Tàu chưa có chữ viết, chưa có mặt tại Á Châu. Chữ Sĩ và chữ Thượng phải là chữ viết của dân tộc Ḥa B́nh. Hai chứng tích này làm điên đầu các nhà khảo cổ v́ chữ Hán được chấp nhận xuất hiện vào 1300 TCN, tức là 6.700 năm sau chữ viết trên hai điă nhỏ này.

  Chữ Sĩ (4a)→

 

Chữ Sĩ (4b)→

 

Chữ Thượng (4c)→

 

Chữ Hạ  (4d)→

 

                                                           

 H́nh 4 : Chữ Sĩ và chữ Thượng .

  (Trích từ sách Nghiên cứu chữ Hán và tiêng Hán Việt 1989”của Giáo sư Vũ Thế Ngọc.)

Lúc mới khai quật lên, hai chữ viết này không được chú ư lắm v́ bị lầm tưởng là hoa văn trang trí. Nhưng khi xét kỹ mới khám phá ra hai chữ này có dạng chữ Sĩ và chữ Thượng trên Bản Hán Tự Thượng Hải (Shanghai Chinese Text). Hai chứng tích này là bằng chứng khảo cổ học thứ nhất quả quyết rằng người Tàu đă lấy chữ viết Việt tạo ra chữ Hán hoàn toàn ăn khớp với lệnh cuả Chu Tuyên Vương (827 TCN-782 TCN) và chữ giáp cốt cuối đời Thương không do người Tàu phát minh. Ta thấy chữ Sĩ (H́nh 4a) có cách sửa đổi giống trong chữ “Phật” thảo luận ở trên. Chữ Sĩ (H́nh 4b) không có sửa đổi nào ở

kiểu chữ Lệ và Chân. Đoạn ngoằn nghèo của nét thẳng đứng trong chữ Thượng (H́nh 4c) được thay thế bằng một đoạn thẳng thôi ở chữ Lệ và chữ Chân. Chữ Hạ (H́nh 4d) có

cùng một cách sửa đổi với chữ Thượng. Sau đây là h́nh chụp (Photo) thực của hai chữ Sĩ và Thượng trên hai đĩa gốm nhỏ do Madelaine Colani đào được (H́nh 5).

                       

Chữ Thượng                Chữ Sĩ

 

H́nh 5 : H́nh chụp hai chiếc đĩa gốm nhỏ do Madelaine Colani đào quật ở chân núi Lam Gan vùng Văn Hóa Ḥa B́nh Việt Nam năm 1923

 

Hai chữ Sĩ và chữ Thượng này minh chứng cho giả thuyết của Giáo sư David Keightley (Berkely 1983) rằng : “Nền văn minh Trung Quốc không phát xuất từ phía bắc sông Wei (sông Vị) như đă lầm tưởng. Nó phát xuất từ phía nam sông Dương tử (Yangtze river). Sự phát triển của dân Việt và các dân lân bang khác cho thấy nguồn gốc văn hóa và thể thức từ đó nền văn minh sớm nhất của Trung Quốc được thành h́nh. Khảo cổ học, ngôn ngữ học và nhân chủng học cho phép đưa ra giả thuyết rằng một dân tộc phía nam Trung Quốc vào thời đồ đá mới (Neolithic) nắm giữ vai tṛ căn bản trong Trung Tâm Văn Hóa Ḥa B́nh đă di dân vào thiên kỷ thứ năm TCN qua tỉnh Szechwan đến bờ sông Wei lập ra nền văn minh thời đồ đá mới Trung Quốc (The Origin of the Chinese Civilization 1983, Đại học Berkely).

 Giả thuyết này cho chúng tôi tin tưởng hơn rằng dân Ḥa B́nh đă để lại vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều những chữ giáp cốt hoàn hảo khi họ di dân qua đó.

                

VIII-Bằng Chứng Khảo Cổ Học Thứ Hai (Chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn) :

 

Năm 1979, khi khảo sát những di vật thuộc văn hóa Đông Sơn do nhà khảo cổ học Thụy Điển O. Janse khai quật được ở Thanh Hóa, hiện để ở bảo tàng Guimet, Paris, Giáo sư Hà Văn Tấn thấy một công cụ bằng đồng  các nhà khảo cổ học quen gọi là lưỡi cày cánh bướm, đặc trưng cho vùng sông Mă – có hai kư hiệu ở hai bên họng tra cán (H́nh 4, hàng trên). Hai kư hiệu này do không đối xứng với nhau, có nhiều khả năng là chữ viết. Chữ thứ nhất là chữ Tài (tài giỏi), chữ thứ hai là chữ (xử dụng).

 

                            

                                                                                                             

                                                                                                     Mộc Mộc    

 

H́nh 6 : Hàng trên:  Chữ viết trên lưỡi cày h́nh cánh bướm ở Thanh Hóa.                   

               Hàng dưới: Chữ viết trên chiếc qua ở vùng sông Mă, Thanh Hóa.

 

Trong số đồ đồng ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Hà Nội), Giáo sư Hà Văn Tấn gặp một chiếc qua, một thứ vũ khí cổ, t́m được ở vùng sông Mă Thanh Hóa, trên thân có khắc

năm kư hiệu (H́nh 4, hàng dưới).  Cặp chữ số 4 là chữ “Lâm” (rừng) lập thành bởi phối hợp hai chữ” Mộc” (cây). Giáo sư Hà Văn Tấn xác định “Chữ viết trên lưỡi cày văn hóa Đông Sơn th́ hẳn là chữ của người Việt cổ.” Cái qua đồng vừa t́m thấy ở vùng sông Mă Việt Nam, lại vừa t́m thấy ở phía nam sông Dương tử. Ông nghĩ rằng chữ viết trên

cái qua là chữ viết của người Lạc Việt. Ở Trường Sa (Hồ Nam), người ta t́m thấy trong một ngôi mộ Sở một con dao găm có cán h́nh người. Đó là săn phẩm của văn hóa Đông Sơn. Giáo sư Hà Văn Tấn kết luận : “Ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn lên phía bắc theo lưu vực sông Nguyên, sông Tương đến đất Sở là rơ ràng”. Giờ đây có thể nói rằng :  

 có một hệ thống chữ viết Việt cổ thời kỳ văn minh Đông Sơn phát triển rực rỡ ở khoảng thế kỷ IV trước công nguyên, trước khi người Hán vào xâm lược, đô hộ đất

nước cuả người Việt cổ hơn một ngh́n năm, và đến năm 938 đă bị đánh đuổi về phương bắc.”

Dưới đây là cách người Tàu sửa đổi chữ khoa đẩu thành chữ Đại triện (chữ Hán) :

      

                                    

 

                                                       

 

 

Chữ khoa đẩu                            Chữ Hán

                                                    (Chữ cuả người Lạc Việt)

 

                    H́nh 7 : Chữ khoa đẩu “Mộc” (cây) sửa thành chữ Hán “Mộc”

                     Trích từ sách “Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt 1989”của Giáo sư.Vũ Thế Ngọc, trang 280, cột 15.

 

Chữ khoa đẩu “Mộc” được sửa thành chữ Hán “Mộc” theo lệnh của Chu Tuyên Vương (827 TCN-782 TCN) trong kế hoạch chiếm thu chữ viết Việt tộc. Nét cong ngửa mặt lên trên của chữ khoa đẩu Mộc được thay thế bằng một nét thẳng nằm ngang và nét cong úp mặt xuống được thay thế bằng hai nét xéo ra hai bên. Nét sổ thẳng đứng ở giữa giữ nguyên.

H́nh 8 cho thấy cách tạo chữ khoa đẩu mới được tạo thành theo Lục Thư :

                       

Chữ khoa đẩu               Chữ Hán

 

                                                                                    

                                                                                  

 

 

 

 

 

 

Chữ Mộc (cây)

 

                                                                                  → Chữ Lâm (rừng)

 

 

                                                                          → Chữ Sâm (rừng rậm)

 

H́nh 8 : Lục Thư : Cách thành lập chữ “hội ư” từ chữ tượng h́nh “Mộc”.

 

Kết hợp hai chữ tượng h́nh Mộc (cây) làm ra chữ hội ư “Lâm”(rừng) và hợp ba chữ Mộc làm ra chữ “Sâm”(rừng rậm) cho thấy dân Ḥa B́nh phát minh ra Lục Thư. Việt tộc có hai cách viết chữ Sâm là : a- Ba chữ Mộc sắp theo hàng ngang hoặc

                                         b- Một chữ Mộc chồng lên hai chữ Mộc khác sắp hàng ngang ở

                                             dưới (H́nh 8).

Việt tộc viết con số cũng khác với người Tàu (H́nh 9) :

                                        

                                                 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

H́nh 9 : Chữ số của Việt tộc

 

Việt tộc có kư hiệu h́nh cái vỏ nghêu cho con số “KHÔNG”(zero). Có lẽ Việt tộc thời tiền sử ưa ăn ốc, nghêu… nên lấy cái vỏ nghêu trống không (sau khi ăn  ruột nghêu) làm kư hiệu số “không”. Việt tộc và người Maya ở Mỹ Châu có cùng một kư hiệu cho số “Không”.  Số 1, 2, 3. và 4, người Việt viết bằng 1, 2, 3,và 4 nét nằm ngang chồng lên nhau như 4 ngón tay của bàn tay (trừ ngón cái). Số 5 : có kư hiệu giống số 10 La Mă. Số 7 : có kư hiệu giống chữ Thập. Số 10 : viết bằng một đường sổ thẳng đứng. Việt tộc dựa theo thiên tạo 10 ngón tay hay 10 ngón chân mà phát minh ra hệ số đếm thập phân (10).

 

 IX- Bằng Chứng Chữ Khoa Đẩu Khác Sửa Thành Chữ Hán :

 

Chúng tôi tŕnh bày vài chữ khoa đẩu và chữ Hán giống nhau như hai anh  em sinh đôi đă thảo luận ở trên :

          

 

 

 

 

 

 

 

                                                                                               →Chữ Nhân (10a                                                                            

                                                                                              Chữ Hoàng (10b)

 

                                                                                               →Chữ Hỏa (10c                                                                                                                                              

    Chữ Đế (10d)                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                             

 

                                                                                               →Chữ Vương (10e)

 

                Hinh 10 : Chữ khoa đẩu Nhân, Hoàng, Hỏa, Đế và Vương

 

Chữ khoa đẩu Nhân  (H́nh 10a) được thay thế bằng hai phảy qua bên phaỉ và bên trái. Chữ khoa đẩu Hoàng  (H́nh 10b) hoàn toàn giống chữ Hoàng trên cái triện của Tần Thủy Hoàng (H́nh 11a) và có thay đổi ở kiểu chữ Chân nhưng dạng tổng quát c̣n giữ nguyên.

 

 

 

 

 

                                                         

 

 

 

  H́nh 11 : Cái triện của Tần Thủy Hoàng

                                →Hoàng (11a)

 

                                 →Đế (11b)

 

Chữ khoa đẩu  Hỏa (H́nh 10c) có hai nét thẳng đứng hai bên nghiên hơn ở chữ Lệ và chữ Chân. Chữ khoa đẩu Đế (H́nh 10d) không khác ǵ với chữ Đế (H́nh 11b) trên cái triện của Tần Thủy Hoàng. Ở chữ Chân có thay đổi đáng kể nhưng dạng tổng quát c̣n giữ nguyên. Chữ khoa đẩu Vương (H́nh 10e) có thay đổi không đáng kể ở chữ Chân.

 

    b- Chữ khoa đẩu trên trống đồng ở Giám Tử Học tại thủ đô Huế Việt Nam :

 

                  

 

         

 

 

 

 

 

  H́nh 14 : Chữ khoa đẩu trên trống đồng ở Giám Tử Học, Huế Việt Nam

                           [? Chữ Án (bàn dài), …., Chữ sau cùng Nhân (người)].

 

                        

 

 

 

 

 

 

 

 

    H́nh 15 :  Chữ Khoa Đẩu Trên Trống Đồng ở Quốc Tử Giám, Huế, Việt Nam.

                               [Từ trái sang phải : … , Chữ Hạ (ở dưới) và chữ Nhi (thế mà)].

 

X-Chữ Đại Triện Lại Có Một Tên Khác Là Khoa Đẩu Văn :

Giaó sư Vũ Thế Ngọc viết : “Cho đến 800 trước Tây lịch, Thaí sử họ Lưu đời nhà Chu nhân v́ để soạn lại một bản liệt kê các từ ngữ đă có, để cho dùng cho việc viết sử đă chỉnh đốn lại Cổ Văn. Thứ chữ này gọi là Lưu Văn hay Đại triện.

“Đại triện lại có một tên khác là Khoa Đẩu Văn (chữ h́nh con ṇng nọc) – như người ta đọc thấy trong truyện Hiệp Khách Hành của Kim Dung”.

Theo lệnh của Chu Tuyên Vương (827TCN – 782 TCN), các Thái sử Tàu (họ Lưu và Trửu) đă thêm bớt chữ khoa đẩu tạo ra chữ Đại triện để viết sử Tàu 2.827 năm trước khi chữ giáp cốt được đào quật lên năm 1899 ở vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều. Vậy chữ Hán bắt đầu với chữ Đại triện, tức là chữ khoa đẩu sửa đổi dưới thời Chu Tuyên Vương.

 

       

                                  

 

                               

 

 

 

 

 

 

    H́nh 12 : Chữ Đại triện

 

 Năm 213 TCN, theo lệnh của Tần Thủy Hoàng, Thừa Tướng Lư Tư chỉnh đốn lại sự hổn độn văn tự, sắp đặt lại cho thống nhất, giải thích cách cấu tạo, ư nghĩa các chữ mà không sáng tạo thêm chữ mới nào cả. Ông cho xuất bản 3.300 chữ dưới tựa đề Tam Thương. Hệ thống này goị là Tiểu triện (H́nh 13). Vậy Đại triện và Tiểu triện không khác nhau. Cả hai viết bằng bút tre hay gỗ với nét đậm và đều. Đại triện và Tiển triện c̣n đậm màu chữ khoa đẩu. Trên h́nh 13, ta c̣n nhận ra chữ khoa đẩu Bạch, Vương, Đế và bên cạnh là

chữ Thổ. Triện thư được dùng viết sử từ khoảng 827 TCN, tức là 2.827 năm sau chữ giáp cốt và là chữ chính thức cho toàn thể Trung Quốc dưới thời nhà Tần và nhà Hán.  Suốt nhiều ngàn năm lịch sử của Trung Quốc, người Tàu xử dụng chữ viết Việt tộc (chữ khoa đẩu) dưới ẩn danh là Triện thư. Đây là một hệ thống viết bắt buộc cho giới học giả thời đó. 

 

               

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                           

 →Bạch

 

 →Vương

 

→Đế (kế bên là chữ Thổ)

                                                                

   

 

  H́nh 13 : Chữ Tiểu triện

 

 

XI-Một Thứ Chữ Mang Hai Tên Khác Nhau :

 

Đây là một chứng liệu lịch sử cho thấy lời nói “Chữ Đại triện lại có một tên khác là Khoa Đẩu Văn” là đúng. Giaó sư Vũ Thế Ngọc viết : “Tên này (chữ h́nh con ṇng nọc) có nguyên do bởi ông thế tử dốt chữ của nuớc Lỗ. Vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Dương

lịch, khi người ta rỡ vách nhà của Khổng Tử t́m ra được một số sách cổ (của Khổng Tử, được giấu đi trong thời Tần Thủy Hoàng). Sách được viết bằng Đại triện, ông hoàng kia không biết bèn kêu là “h́nh con ṇng nọc” nên có tên tục từ đó.”

 

Cùng một thứ chữ trong cùng một số sách cổ  giấu trong cùng một vách nhà của Khổng Tử mang hai tên khác nhau “Đại triện” bởi Giáo sư Vũ Thế Ngọc và “khoa đẩu” bởi Khổng An Quốc cháu 12 đời cuả Khổng Tử. Sau đây là lư do của sự khác biệt đó :

·       Giáo sư Vũ Thế Ngọc sinh ra đời hơn 2.000 năm sau khi Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt tất cả sách Phật giáo viết bằng chữ khoa đẩu và chôn sống Nho sĩ nào cố cất giấu các sách cổ đó. Ông học với sách viết bằng chữ Nho (chữ Hán) và theo sách mà gọi chữ Đại triện th́ chả có ǵ đáng trách cả!

    b-Nhà học giả Khổng An Quốc đời Hán có tài liệu (Phục Sinh) và người đương thời biết đọc chữ khoa đẩu giúp ông nên ông gọi bằng chữ Khoa đẩu. Cái đáng chú ư là chữ Đại triện chính là chữ khoa đẩu được sửa đổi theo lệnh của Chu Tuyên Vương (827 TCN-782 TCN). Chúng tôi có thể chứng minh bằng toán học hay tam đoạn luận rằng chữ Đại triện chính là chữ khoa đẩu. Khổng An Quốc gọi chữ khoa đẩu là Cổ Văn. Hậu Hán

thư-Lô Thực truyện viết : Cổ Văn khoa đẩu: Nhan Sư xưa có chú :  Cổ Văn là sách trong vách nhà Khổng Tử. Văn tự ấy h́nh nó giống con khoa đẩu (ṇng nọc) nên lấy con ấy mà đặt tên goị là chữ khoa đẩu.”  Tân thư Vệ Hằng truyện nói : Thời Hán Đế, Lỗ Công Vương phá nhà Khổng Tử lấy được Thượng thư, Xuân thu, Luận ngữ, Hiếu kinh. Người đương thời không biết khôi phục lại chữ viết củ của họ Hùng nên gọi là chữ khoa đẩu.”

Thái sử họ Lưu đời nhà Chu goị Cổ Văn là Đại triện.”

Chữ khoa đẩu  =  Cổ Văn (Khổng An Quốc, Nhan Sư)

Chữ Đại triện   =  Cổ Văn (Thái sử họ Lưu đời nhà Chu)

Vậy :          Chữ Đại triện   =   Chữ khoa đẩu

Tóm lại, người Tàu đă xử dụng chữ viết của Việt tộc (chữ khoa đẩu) suốt ḍng lịch sử của dân tộc họ hơn ba ngh́n năm. Chữ Hán (827 TCN) có nguồn gốc từ chữ viết của Việt tộc (10.000 TCN-15.000 TCN).

 

XII - Chữ Viết Người Lạc Việt ở Quảng Tây :

Lí Nhĩ Chân thuộc Hôi Nghiên Cứu Văn Hóa Lạc Việt  tỉnh Quảng Tây thông báo chữ viết cổ Lạc Việt được phát hiện ở huyện B́nh Quả tỉnh Quảng Tây ngày 22 tháng 12 năm 2011. Chữ cổ  này tại di chỉ cúng tế xẻng đá lớn Cảm Tang, thị trấn Mă Đầu, huyện B́nh Quả, tỉnh Quảng Tây được khắc trên mấy chục khối mảnh vỡ xẻng đá lớn. Ngoài ra Hội Nghiên Cứu cũng phát hiện phù hiệu và bản vẽ của người Lạc Việt cổ ở núi Đại Minh,  tỉnh Quảng Tây. Quán trưởng Bác vật quán Quảng Tây, Chủ nhiệm Ủy viên Hội Giám định Văn vật Quảng Tây là Tưởng Đ́nh Du cho rằng phù hiệu và bản vẽ này là phù hiệu khắc vẽ cúng tế của người Lạc Việt cổ thời đại đồ đá mới. Bộ môn khảo cổ uy tín của nhà nước giám định niên đại chữ viết này vào thời văn hóa xẻng đá lớn (4000-6000 năm trước Công Nguyên). Chữ viết của người Lạc Việt sớm hơn chữ giáp cốt của nhà Thương ở Trung Nguyên đến hơn 1000 năm, cũng có niên đại sớm hơn so với tiền thân của chữ

giáp cốt là chữ viết trên xương thú của người Đông Di ở tỉnh Sơn Đông và có nguồn gốc với chữ viết của người Thủy.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

H́nh 14 a : Phiến đá có khắc chữ Lạc Việt ở B́nh Quả tỉnh Quảng Tây.

 

 

                       

 

    H́nh 14b : Sơ đồ h́nh (14a) phiến đá có khắc chữ Lạc Việt ở Quảng Tây.

 (a = Mộc, b = Sĩ, c = Xuất, d = Chấp, e = Công)

 

Phía trên ngón tay cái cầm phiến đá (H́nh 14 b) có khắc :

   a-Chữ  Mộc giống chữ trên cái qua đồng Đông Sơn với niên đại 2000 TCN (H́nh 6) mà Hà Văn Tấn cho là chữ viết của người Lạc Việt.

   b-Chữ  giống chữ trên hai chiếc đĩa gốm nhỏ (H́nh 5) Madelaine Colani đào quật ở chân núi Lam Gan trong vùng Văn hóa Ḥa B́nh bắc Việt Nam năm 1923 với niên đại 8000 TCN thời gian người Tàu chưa có chữ viết và sự hiện diện ở Á Châu.

   c- Chữ Xuất (đi ra)

   d-Chữ Chấp (hai mươi, 20) có dạng hai chữ thập liền nhau.

   e-Chữ Công (công việc, người thợ).

Vậy chữ viết của người Lạc Việt bao gồm chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn (Việt Nam), chữ viết người Ḥa B́nh (trên hai chiếc đĩa gốm nhỏ) chứng minh chữ giáp cốt hay sấm ngữ là chữ khoa đẩu của Việt tộc. Do đó chữ được gọi chữ Hán từ hơn 3000 năm nay thật sự là chữ viết của Việt tộc phát minh rồi người Tàu chiếm thu bằng bạo lực.

Ngày 22 tháng 11 năm 2011, Hội Nghiên cứu Văn hóa Lạc Việt tỉnh Quảng Tây viết :  Người Lạc Việt ở Trung Quốc đă sáng tạo chữ viết vào bốn ngh́n năm trước, phá bỏ quan niệm tổ tiên của dân tộc Tráng là người Lạc Việt không có chữ viết. Phát hiện chữ viết  của người Lạc Việt lần này sẽ viết lại lịch sử chữ viết ở Trung Quốc, chứng minh văn hóa Lạc Việt là một trong những nguồn gốc trọng yếu của Trung Hoa. 

 

 

 

 

 

 

 

 

H́nh 15 : Cái qua đá có khắc chữ Lạc Việt ở sông Tả tỉnh Quảng Tây.

 

Vậy sự phát hiện chữ người Lạc Việt chứng minh một cách tuyệt đối rằng chữ giáp cốt (sấm ngữ) cuối đời Thương do người Bách Việt phát minh và để lại ở vùng văn hóa Ngưỡng Thiều. Sự phát hiện chữ người Lạc Việt là một nỗi mừng lớn lao cho nhà khảo cổ Việt Nam. Nhưng đó không phải là sự đột ngột quá bất ngờ v́ họ đă có nhiều dữ kiện sớm hơn về sự phát minh và phát triển của chữ Việt cổ sau đây :

1-Văn bản trên b́nh gốm ở di chỉ Bán Pha 2 tỉnh Sơn Tây  có niên đại 12.000 TCN.

2-Những kư tự khắc trên yếm rùa ở di chỉ Giả Hồ tỉnh Hà Nam có niên đại 9.000 TCN.

3-Một số chữ phát hiện rải rác ở vùng Sơn Đông.

4-Chữ Thủy của bộ lạc Thủy, di duệ của Việt tộc với 250.000 người sống tại Quư Châu.

Theo Hà Văn Thủy, tất cả các chữ đó có những đặc điểm như sau :

  

   a-Kư tự Bán Pha 2 và Giả Hồ đều có niên đại trước cuộc xâm lăng của Hiên Viên (2600 TCN) tức là trước khi người Hoa Hạ ra đời. Điều này chứng tỏ đó là sản phẩm của người Việt cổ, tộc người đă sống trên Hoa Lục 40.000 năm trước.

   b-Cả kư tự Bán Pha 2, kư tự Giả Hồ và chữ viết bộ lạc Thủy đều có sự gần gủi với giáp cốt văn và Kim văn. Dựa trên quy luật đọc chữ giáp cốt, các nhà chuyên môn người Mỹ đă đọc được bản văn trên b́nh cổ Bán Pha 2.

   c-Chữ xưa nhất và đơn giản nhất cũng gần gũi hay  “gợi nhớ”  tới chữ muộn hơn có tự dạng phức tạp hơn là giáp cốt văn. Điều này cho thấy chữ tượng h́nh trên đất Trung Hoa có sự phát triển liên tục, từ ít nhất 12.000 TCN tới 15.000 TCN.

Phân tích tự dạng ŕu Cảm Tang, ta thấy chữ Cảm Tang phức tạp hơn chữ Bán Pha 2 và Giả Hồ, nhưng lại đơn giản hơn giáp cốt và Kim văn. Điều này cho phép giả thuyết hệ thống chữ Lạc Việt có thể từ tự dạng Bán Pha 2 và Giả Hồ tiến tới Cảm Tang. Câu hỏi đặt ra : Từ đâu dẫn tới kư tự Bán Pha 2 ? Ta cần nhiều hơn phát hiện khảo cổ học để thấy

tiến tŕnh của chữ Việt cổ. Nhưng dựa vào những dữ kiện hiện có, ta có thể đoán rằng chữ Việt cổ được bắt đầu bằng những kư tự hiếm hoi trên băi đá Sapa. Có thể là từ Sapa, một 

nhóm Việt đi theo hướng tây bắc mang chữ lên vùng Sơn Tây, Thiểm Tây và lưu lại chữ viết trên b́nh gốm Bán Pha 2.

Những nhóm Việt khác mang kư tự Sapa lên Quảng Tây, Quảng Đông rồi vượt Dương Tử lên vùng Sơn Đông thành lập trung tâm lớn của người Việt. Do ở giai đoạn sớm nên chữ viết ở Bán Pha 2 và Giả Hồ c̣n đơn giản. Ở thời kỳ muộn hơn nên chữ Cảm Tang đă phức tạp hơn. Từ đó, chúng tôi cho rằng , chữ giáp cốt và chữ viết trên đồ đồng Ân Khư là sự phát triển sau cùng của chữ viết tượng h́nh Lạc Việt.

Việt Tuyệt thư hay Việt Tuyệt kư (c̣n gọi là Việt Chép) là một tài liệu thời Xuân Thu Chiến Quốc (770 TCN – 480 TCN), trước Sử Kư của Tư Mă Thiên (100 TCN). Tư Mă Thiên và nhiều sử liệu khác đă lấy nguồn liệu về Bách Việt Sử và các truyền thuyết đương thời từ Việt Thuyệt thư. Tài liệu này chép rằng đời nhà Thương đă nhận gia sản chữ viết Việt, văn hóa Việt và ngôn ngữ Việt từ nhà Hạ. Sử kiện này ăn khớp với nhận định của Giáo sư Lương Kim Định rằng hết đời Thương văn hóa chưa có ǵ là Tàu cả mà vẫn c̣n là Di Việt. Khổng Tử dạy học bằng tiếng Việt gọi là Nhă Ngữ vào thời đó và viết sách Xuân Thu của ngài bằng chữ khoa đẩu (Tân thư Vệ Hằng truyện).  Tần Thủy Hoàng quy định dùng Nhă Ngữ để thống nhất hóa chữ viết và tiếng nói cho cả Trung Hoa cho đến nhà Hán. Khi xuống phương Nam để dẹp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mă Viện nói tiếng Việt và viết chữ Việt. Sau khi dẹp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mă Viện đă tịch thu ở đây Bộ Việt Luật bằng chữ vuông tượng h́nh.  Mă Viện đưa 300 gia đ́nh quư tộc Việt đi an trí ở nam Dương Tử. Chữ Việt bị tiêu diệt. Những người Việt này phải học chữ vuông lại từ đầu. Và chữ vuông lúc này được gọi là chữ Hán ( !?). Chữ vuông tượng h́nh không thay đổi, nhưng cái tên đổi thành chữ Hán! Điều này cho thấy chữ Hán chính là chữ khoa đẩu mà giới thống trị Tàu bắt buộc dân chúng gọi là chữ Hán.

 

XIII- Liên Hệ Giữa Giáp Cốt Văn và Âm Cổ Việt Ngữ :

Đây là một bằng chứng người Tàu không những lấy chữ viết của Việt tộc tạo ra chữ Hán mà c̣n vay mượn luôn cả ngôn ngữ nữa. Giáo sư Vũ Thế Ngọc viết ( tr.71):  Ngày nay sự khai thác kho tàng Giáp Cốt Văn và các công tŕnh về Ngữ Âm Học lịch sử Hán tự ta

c̣n có thể phục hồi lại một số cổ âm Việt Ngữ là những chữ đă được “Hán tự hóa”, để có thêm một thứ chứng liệu lịch sử trong việc nghiên cứu văn hóa cổ ở Việt Nam.”

Lời nói này cho thấy một số cổ âm Việt Ngữ được “Hán tự hóa” : Thật ra chính  những chữ khoa đẩu đó đă được nhà Thương chiếm đoạt sau khi chiếm đất của Bách Việt..

Người Tàu chỉ “Hán hóa” giọng đọc các cổ âm Việt Ngữ để dùng trong ngôn ngữ hằng ngày của họ như Việt Tuyệt thư ghi chép vào thời Xuân Thu-Chiến Quốc. Điều này rất ăn khớp với lời phát biểu của ông Đổ Thành, người Triều Châu, trong bài khảo cứu của Giáo sư Lương Kim Định “Nước Việt của Việt Vương Câu Tiển” : Người Hán ở Bắc Kinh hiện nay nói tiếng Hán với giọng lơ lớ tiếng Việt. Ví dụ : Người Việt nói “phát minh” người Hán Bắc Kinh nói “phá ming”. Người Việt nói “khảo cổ” người Hán Bắc Kinh nói “khào của”. Sự thật lịch sử này đi ngược với quan niệm của sử gia Nguyễn Phương cho rằng người Việt có gốc Tàu và không có tiếng nói riêng. Tiếng Việt là do nói trại từ tiếng Tàu ra. Nhưng nhà ngôn ngữ học (Đỗ Thông Minh) nhận thấy rằng tiếng Việt có 15.000 âm điệu trong khi tiếng Tàu chỉ có 1.300 âm điệu thôi. Nguyễn Phương đă phạm lỗi lầm đáng kể v́ thiếu nghiên cứu.  

Chu Cốc Thành viết “Hiên Viên liền phỏng theo sinh hoạt của Viêm tộc (Việt tộc) mà tổ chức xă hội Hoa tộc”. “Hoàng Đế, Đế Nghiêu, Đế Thuấn là mhững nhân vật thần thoại được tạo dựng lên vào cuối đời nhà Chu (Kim Định)”. Vậy chúng tôi có giả thuyết rằng những từ “Hoàng Đế”, “Đế” và “Vương” người Tàu vay mượn của Việt tộc và phong cho những nhân vật thần  thoại của Tàu các tước vị như Hoàng Đế, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Chữ Đế Nghiêu và Đế Thuấn viết và đọc theo pháp ngữ  của Việt Ngữ là bằng chứng cho giả thuyết trên. Có thể cha của Đế Minh có tước vị là Hoàng Đế mà sử Tàu không chép  lại.

 

XIV-Hai Chiếc Đĩa Gốm Nhỏ ở Vùng Văn Hóa Ḥa B́nh :

 

Hai chiếc đĩa gốm nhỏ do Madelaine Colani đào quật lên ở chân núi Lam Gan vùng Văn Hóa Ḥa B́nh Việt Nam có một tầm quan trọng rất lớn v́ hai chứng vật đó chứng minh một cách tuyệt đối là người Tàu lấy chữ viết Việt tộc tạo ra chữ Hán. Chúng  là sợi dây vô h́nh về nguồn gốc  dân tộc và văn hóa giữa dân Bách Việt và dân Ḥa B́nh. Trước hết chúng tôi xin kính cẩn nghiên ḿnh trước di ảnh của Bà Madelaine Colani (1866-1943), người có công viết lại lịch sử nền văn minh cổ nhất Á châu và thế giới của Việt tộc, đă bị chôn vùi dưới đất sâu từ ít nhất 8.000 TCN đến 16,000 TCN. Bà c̣n là nhân chứng cho sự “chiếm thu”chữ viết của Việt tộc để tạo chữ Hán hơn 3.000 năm rồi.

    1-Hai chiếc đĩa gốm nhỏ có niên đại 8.000 TCN th́ chữ viết Việt tộc trên đĩa có thể xuất hiện ít nhất 8.000 TCN hay lâu hơn nữa, thời điểm người Tàu chưa có chữ viết và chưa có hiện diện ở lưu vực sông Hoàng Hà..

    2-Chữ viết Việt tộc là chữ viết cổ nhất trên thế giới với niên đại ít nhất là 12.000 TCN. đến 15.000 TCN. Chữ viết cổ thứ nh́ là chữ viết Sumérian (écriture cunéiforme ở Lưỡng Hà, Iraq) với niên đại 3.100 TCN. Chữ viết cổ thứ ba là chữ Ai Cập ít lâu  sau chữ viết Sumérian.

    3-Chữ Hán (827 TCN) có nguồn gốc từ chữ viết Việt tộc (12.000 TCN – 15.000 TCN).            

    4-Hai chiếc đĩa gốm nhỏ là sợi dây vô h́nh về dân tộc và văn hóa giữa dân Bách Việt và dân Ḥa B́nh hay nói cách khác dân Bách Việt là chủ thể nền Văn Hóa Ḥa B́nh.

 

XV-Thảo Luận và Kết Thúc :

Hoa tộc là một bộ lạc bán khai, gốc Turk lai Mông Cổ với một nền văn hóa du mục truyền khẩu (không có chữ viết), đến từ Tây Bắc, sống đời sống du mục ỏ Tân Cương và Thanh Hải. Măi về sau mới đánh chiếm đất của Bách Việt, một dân tộc định cư đă lâu đời

ở phía bắc sông Hoàng Hà, với một nền văn hóa nông nghiệp tổng hợp và biện chứng. Lẽ tất nhiên, kẻ chiến thắng có toàn quyền chiếm đoạt đất nước, tài sản, văn hóa và chữ viết của Việt tộc. Nếu Hoa tộc chiếm đoạt chữ viết và văn hóa của Việt tộc là việc dĩ nhiên của dân tộc kém văn hóa bắt chước cái tiến bộ của một dân tộc văn minh hơn. 

Chúng tôi có thêm tài liệu chữ viết Việt Tuyệt thư, một tài liệu thời Xuân Thu-Chiến Quốc (770 TCN – 480 TCN), có trước cả Sử Kư của Tư Mă Thiên (100 TCN) để minh chứng thêm cho cái việc tất nhiên đó.  Tài liệu này viết : Chữ viết và văn hóa của nhà Thương đều là kế tục của nhà Hạ . Sự xác định này đúng với sự nhận xét của Giáo sư Lương Kim Định cho rằng Cho đến hết đời nhà Thương  văn hóa không có ǵ gọi là văn hóa Tàu cả. Văn hóa vẫn c̣n là văn hóa Di Việt. Giáo sư Vũ Thế Ngọc phân tích kỹ lưỡng chi tiết các chứng vật của cuộc đào quật chữ Giáp Cốt năm 1899 tại vùng văn hóa Ngưỡng Thiều chứng minh một cách minh bạch là “Chữ giáp cốt không được phát minh tại vùng văn hóa Ngưỡng Thiều trong 3.000 năm trước Công Nguyên mà có lẽ chúng được để lại đó bởi một dân tộc nào khác khi họ di dân qua vùng này. Vậy tất nhiên là người Tàu không phát minh chữ giáp cốt v́ họ sống trên vùng đó có 300 năm (1600 TCN tới 1300 TCN), một thời gian quá ngắn để có thể hoàn tất một hệ thống chữ viết đ̣i hỏi cả thiên kỷ cho việc làm đó.

Sự gỉa tạo “chữ Việt tượng h́nh cái ŕu đời Thương” bằng cách tách rời cái đuôi của chữ Viêt bộ Mễ của Việt tộc là một chứng cớ không chối căi được rằng nhà Thương không có chữ viết riêng.

Sử viết của nhà Thương được nhà Chu viết lại nhiều thế kỷ sau khi nhà Chu diệt nhà Thương năm 1050 trước Công Nguyên chứng minh một lần nữa nhà Thương không có chữ viết riêng.

Bài Chữ Hán và kư hiệu (Chinese Scripts and Symbols) chép rằng cho đến đời Tần Thủy Hoàng khắp Trung Nguyên c̣n dùng chữ khoa đẩu chứng minh rằng nhà Thương không có chữ viết riêng. 

Sau nhiều năm cai trị, người Tàu đă  quyết định đồng hóa dân Việt.  Việc đầu tiên họ phải làm là chiếm đoạt chữ viết của Việt tộc để độc quyền viết sử cho Việt tộc.

Nhà Thương khởi sự  bằng cách tráo đổi chữ Việt bộ Mễ này    của Việt tộc  thành cái gọi là chữ Việt tương h́nh cái Ŕu đời Thương (H́nh 2)  B́nh Nguyên Lộc mô tả

như sau trong sách Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam của ông (trang 154-157) :

Chữ Việt nguyên thỉ viết rất kỳ lạ : một nét ngang dài và một cái móc ở dưới. Đó là chữ Việt cuối đời nhà Thương, đầu đời nhà Chu, chớ đời Hạ không ai biết nó ra sao cả, v́

không t́m được cổ thư đời Hạ bao giờ, nếu đời Hạ đă có chữ. Chữ Việt giản dị đó, đích thị là cái đuôi của chữ Việt thứ nh́ trong thư tịch Trung Hoa, chữ Việt mà các nhà nho ta gọi là Việt bộ Mễ, nhưng người Trung Hoa gọi là chữ Việt bộ Nguyệt, và cái bộ Nguyệt đó chính là khúc đuôi ấy, chớ không phải là chữ Mễ trong cái khung vuông. Cho đến khi Khổng Tử san định Kinh Thư th́ mới thấy chữ Việt bộ Mễ xuất hiện, chớ trước đó th́ chỉ có chữ Việt nguyên thỉ là cái đuôi của chữ Việt bộ Mễ. Tại sao họ lại viết như vậy ? Không thấy sách nào cắt nghĩa cả, chúng tôi nghiên cứu riêng th́ thấy rằng chữ Việt nguyên thỉ và đơn giản đó có thể có nghĩa là cái ŕu… Một loại ŕu như vậy đă được đào lên ở Quốc Oai giữa Hà Đông và Sơn Tây… » . 

Câu hỏi đặt ra là chữ Việt tượng h́nh cái ŕu đời Thương có phải do người Tàu phát minh ra hay không? Câu trả lời là KHÔNG ! Người Tàu đời Thương chỉ “khéo léo” tách rời cái

đuôi (cái móc) của chữ Việt bộ Mễ  này   mà tạo ra chữ  tượng h́nh cái ŕu đời Thương. Giới thống trị Tàu bắt dân đọc chữ tượng h́nh cái ŕu mới tạo ra là chữ “Việt”. 

Họ nhận thấy phương pháp này có vẽ thành công nên Chu Tuyên Vương (827 TCN – 782 TCN) ra lệnh cho Thái sử Trửu thêm bớt lối chữ khoa đâu đặt ra lối chữ Đại triện (14VN) dùng vào việc viết sử Trung Hoa.

                                                   

                                                              

 

H́nh 2 : Chữ Việt tượng h́nh cái Ŕu đ̣i Thương do chỉ lấy cái phần dưới, tức là cái móc h́nh lưởi hái gặt lúa của chữ Viêt bộ Mễ (lúa) của Việt tộc.

 

V́ họ biết họ không thể giấu sự thật nên họ cho biết dân Việt có chữ viết khi nước Việt Thường dâng cho Đế Nghiêu con rùa sống 1000 năm trên lưng có khắc chữ khoa đẩu kể lại sự việc khai thiên lập địa về sau. Nhưng họ không bao giờ cho dân Việt thấy h́nh dáng của nó ra sao cả hơn 3000 năm. Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt tất cả sách Phật giáo viết bằng chữ khoa đẩu và chôn sống Nho sĩ nào cố cất giấu các sách cổ đó.  Tội cất giấu sách cổ đâu có phải là tội đáng bị chôn sống ? Nhưng Tần Thủy Hoàng đă thi hành h́nh phạt vô nhân đạo đó th́ phải có một nguyên do thâm sâu nào khác.  

Người Tàu sửa đổi chữ viết xong th́ Khổng Tử, bậc hiền triết đă tự nhận không sáng tác điều ǵ mới cả mà chỉ lập lại lời của tiền hiền đă truyền ra thôi, khởi sự biến đổi (san định) văn hóa Việt tộc bằng cách biên soạn lại các sách của Việt tộc như Kinh Thư, Tả truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh, vv… bằng cái gọi là chữ Hán. Vậy Khổng Tử chỉ lập lại các tư tưởng cao siêu của tiền hiền Bách Việt trong các sách cổ đó thôi. Nhưng sách Khổng Tử  san định lại được cho là tư tưởng của Khổng Tử ! Nhà Chu đổi tên Kinh Dịch thành Chu Dịch. Trớ trêu thay chữ Hán là chữ Đại triện (H́nh 8) sửa đổi từ chữ khoa đẩu.

Chữ Mộc, Lâm và Sâm cùng các chữ số Việt tộc cũng được t́m thấy trong các chữ giáp cốt 1300 TCN. Người Tàu mượn số 1, 2, 3, 6, 8 và 9 của con số Việt tộc. Việt tộc viết số 1, 2, 3,và 4 bằng những nét nằm ngang chồng lên nhau như 4 ngón tay trong bàn tay trừ ngón cái, số 5 bằng một kư hiệu giống số 10 La Mă ;  số 7 bằng kư hiệu giống chữ thập và số 10 bằng một nét thẳng đứng. Việt tộc dùng kư hiệu vỏ nghêu cho con số  KHÔNG. Người Tàu không có kư hiệu cho số Không có lẽ v́ họ không có quan niệm toán học về số Không.  Số KHÔNG của Việt tộc được khắc trên mai rùa và xương thú (giáp cốt hay

sấm ngữ) từ 1300 TCN  có nghĩa là kư hiệu đó đă có trước năm 1300 TCN lâu hơn nữa. Người Maya thổ dân Mỹ Châu cũng có cùng một kư hiệu h́nh vỏ nghêu cho số KHÔNG cùng HAI VẬT BIỂU (chim và rắn/rồng và tiên hay chim) và cùng Mitochondrial DNA. Ta có thể kết luận Việt tộc và Maya là một dân tộc anh em. Họ đă mang kư tự số Không

từ Á Châu sang thế giới mới là Mỹ Châu. Người Maya dựa vào 10 ngón tay và 10 ngón chân để có số 20 trong Thánh Lịch Zolkin (20 x 13 = 260 ngày). Lịch thường của họ có 365 ngày. Dân Việt lập hệ thống số thập phân (10) dựa trên thiên tạo 10 ngón tay (hay 10 ngón chân).

Chữ giáp cốt ở vùng Ngưỡng Thiều giống chữ viết trên hai chiếc đĩa gốm nhỏ Madelaine Colani đào lên được ở vùng Ḥa B́nh Việt Nam năm 1923. Hai chiếc đĩa gốm nhỏ có niên đại 8.000 TCN, tức là 6.700 năm trước chữ giáp cốt cuối đời Thương (1300 TCN).

Chữ giáp cốt cuối đời Thương (1300 TCN) cũng giống chữ viết trên các đồ đồng Đông Sơn với niên đại 2.000 TCN, tức là 700 năm trước chữ giáp cốt.

Vậy chữ giáp cốt hay sấm ngữ chính là chữ khoa đẩu của Việt tộc mà dân Ḥa B́nh đă để lại tại vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều khi họ di dân qua đó. Thêm nữa, rùa không có hoặc có rất ít ở vùng lạnh. Ở vùng Nam sông Dương tử trời ấm áp nên có nhiều rùa. Vậy gần 5000 mảnh chữ viết giáp cốt hay sấm ngữ ở vùng Ngưỡng Thiều có thể được mang đến từ các vùng ấm miền Nam sông Dương tử .

Chữ viết trên Việt Vương Câu Tiển Kiếm (498 TCN – 465 TCN) là chữ Mân Việt, một lối chữ đồng thời với chữ viết thời Khổng Tử nhưng viết theo kiểu “Điểu Trùng Văn” (Birds and worms characters), một lối chữ khó đọc. Như đă thảo luận, chữ viết từ trước nhà Thương xâm lăng đến đời Hán là chữ khoa đẩu (Việt Tuyệt thư). Khổng Tử soạn thảo sách Xuân Thu của ngài bằng chữ khoa đẩu theo Tân thư Vệ Hằng truyện. Do đó chữ Việt trên bảo kiếm do vua Việt tự đúc lấy để dùng (tự tác dụng kiếm) là chứng nhân hiếm hoi c̣n sót laị sau 3000 ngàn năm người Tàu đă cố công che giấu h́nh dáng chữ viết của Việt tộc. Chữ viết đó cho chúng ta một ư niệm rơ rệt về h́nh dạng của chữ khoa đẩu như thế nào (xem H́nh 1a, 1b, 1c, trang 3).

Cổ sử Trung Quốc cho thấy rơ cái b́nh rượu là Tàu mà rượu bên trong b́nh là Việt, tức là văn hóa, tiếng nói và chữ viết … là Việt. 

Người Tàu đồng hóa chữ Hán với chữ giáp cốt cuối đời nhà Thương (1300 TCN) là một sự mạo nhận không có căn bản lịch sử. Chữ giáp cốt nằm sâu dưới đất không một ai biết đến từ 1300 TCN đến 1899 trong khi chữ Hán bắt đầu với chữ Đại triện dưới thời Chu Tuyên Vương  năm 827 TCN.. Triện thư không có liên hệ ǵ với chữ giáp cốt cả. Nó ra

đời với Thái sử Trửu theo lệnh của Chu Tuyên Vương sửa đổi chữ khoa đẩu tạo ra nó, nghĩa là nó được xử dụng để viết sử Tàu 2.827 năm trước khi chữ giáp cốt được khám phá. Người Tàu nhận 1.400 trong số 2.500 chữ giáp cốt  được nhận diện với chữ Hán sau này (can be identified with later Chinese characters). Chữ Hán sau này là chữ Đại triện

sửa đổi từ chữ khoa đẩu. Cũng vậy người Tàu về sau này vẫn tiếp tục biện minh cho chữ Đai triện một cách vô căn cứ và không có cơ bản lịch sử trong bài đăng trên Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia (16-09-2009) rằng Triện thư là chữ cổ của thư pháp Trung Quốc. Nó có nguồn gốc từ chữ giáp cốt thời Chu (1050 TCN-256 TCN) và phát triển ở nước Tần (221 TCN-207 TCN) trong thời Chiến Quốc. Ở thời nhà Thương, Chu, Chiến Quốc, Tần và Hán…không một ai biết có chữ giáp cốt cả. Vậy làm sao chữ Đại triện (827 TCN) và cả Tiểu triện (213 TCN) có nguồn gốc tữ chữ giáp cốt mới đào quật lên vào năm 1899 sau này được??! .

Qua “Lỗ Hổng Lịch Sử Trung Quốc  tài liệu đáng tin cậy, chúng tôi nhận thấy nhiều sử kiện cho phép kết luận rằng trong suốt thời cổ trước đời nhà Thương đến  nhà

 

Hán, các nước ở Trung Nguyên có cùng một thứ chữ viết tuy không thống nhất. Tóm tắt bài nghiên cứu, ông Đổ Thành, người Tàu Triều Châu kết luận :Quá nhiều bằng

chứng và quá rơ ràng là trước đây từ nhà Hán, Tần, Xuân Thu-Chiến Quốc, Chu, Thương, Hạ, Ngũ Đế, Tam Hoàng, … xa xưa, văn hóa và ngôn ngữ là Việt ».    

Quả nhiên đúng như thế : Bách khoa toàn thư Wikipedia có bài về “Chữ Hán và Kư hiệu” (Chinese Scripts and Symbols) viết rằng: “…trước khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất chữ viết năm 221 TCN, mọi nước ở Trung Nguyên (China) có cùng một thứ chữ viết mà

họ có thể đọc hiểu lẫn nhau (mutually comprehensible) với một số chữ  ngoại lệ riêng cho mổi nước (deviations)”.

Sau khi thống nhất sáu nước cuối cùng, Tần Thủy Hoàng sai Thừa Tướng Lư Tư chỉnh đốn lại sự hổn độn văn tự, sắp đặt lại cho thống nhất, giải thích cách cấu tạo, ư nghĩa các chữ mà không sáng tạo thêm chữ mới nào cả. Vậy Tần Thủy Hoàng không loại bỏ chữ viết của một nước nào cả mà chỉ thống nhất một số chữ ngoại lệ riêng cho mổi nước thôi (deviations). Vậy chúng tôi có thể kết luận là khắp cả Trung Nguyên chữ viết Việt, văn hóa Việt và ngôn ngữ Việt được mọi nước xữ dụng với vài thay đổi theo từng địa phương tùy theo mức độ pha chủng và giao tiếp văn hóa khác nhau mà Tần Thủy  Hoàng sai Thừa Tướng Lư Tư chỉnh đốn cho toàn thể Trung Quốc.     

Nếu xét về lịch sử địa danh th́ Chu Cốc Thành và nhiều nhà cổ sử Trung Quốc khác xác nhận Viêm tộc (Việt tộc) đă định cư sinh sống lâu đời tại phía bắc lưu vực sông Hoàng Hà trước khi Hoa tộc, một bộ lạc bán khai có gốc Turk đến từ Tây Bắc sống đời sống du mục tại Tân Cương và Thanh Hải. Măi về sau, họ mới đến đánh chiếm đất của Bách Việt,

một dân tộc định cư nông nghiệp với văn cao nhưng vỏ kém và bị Si Vưu lảnh tụ Viêm tộc chống cự. Sau khi Si Vưu tử trận, Hiên Viên lảnh tụ Hoa tộc bá chiếm sáu tỉnh lưu

vực sông Hoàng Hà mà lập ra nước Tàu. Ông liền phỏng theo sinh hoạt của Viêm tộc mà tổ chức xă hội Hoa tộc. Sử kiện này làm cho địa thế Ngưỡng Thiều mất giá trị lịch sử về

văn hóa của dân bán khai du mục Hoa tộc mới đến sau này với văn hóa du mục truyền khẩu (không có chữ viết) chưa có in dấu trên đất phía bắc nước Tàu.  Do đó, Hoa tộc

không thể nào phát minh ra chữ giáp cốt, một hệ thống chữ viết hoàn hảo đ̣i hỏi đến cả hằng thiên kỷ để hoàn thành. Thêm nữa, nghiên cứu chữ giáp cốt cho thấy chúng không được phát minh ở vùng văn hóa Ngưỡng Thiều trong khoảng thời gian 3.000 năm trước Công Nguyên. Ông Wilhem G. Solheim II tại Đại học Hawaii quả quyết rằng nền Văn Hóa Ḥa B́nh là nguồn gốc của nền Văn Hóa Ngưỡng Thiều.  Do đó quan niệm chữ giáp cốt cuối đời nhà Thương (1300 BC) do người Tàu phát minh không c̣n thế đứng vửng được nữa v́ nhiều lư do :

  1-Chữ giáp cốt cuối đời nhà Thương (1300 TCN) thiếu hoàn toàn chữ tượng h́nh và đă phát triển đến giai đoạn hội ư vượt xa giai đoạn căn bản thuần túy tượng h́nh và chỉ sự (Giáo sư Vũ Thế Ngọc). Không một chữ viết của bất cứ dân tộc nào trên trái đất mà không qua giai đoạn tượng h́nh khi khởi sự phát minh ra chữ viết như đă chứng minh ở trên.

Các nhà khảo cổ Trung Quốc không phát hiện, suốt trong khoảng 3.000 năm, bất cứ một

chứng liệu nào chứng tỏ sự sáng tạo liên tục từ các h́nh vẻ hay dấu hiệu thời Ngưỡng Thiều tiến đến lối văn tự xuất hiện ở gần cuối đời nhà Thương (1300 TCN) chứng minh

 hùng hồn rằng các chữ giáp cốt hoàn hảo đó đă được để lại vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều bởi một dân tộc nào di dân qua đây và để lại chữ viết của họ tại đây v́ nhà Thương

cư trú ở đó 300 năm với gia tài “chữ viết Việt và văn hoá Việt” do nhà Hạ để lại như “Việt Tuyệt thư»” đă ghi lại. Sự khảo cứu của Giáo sư David Keightley cho thấy đó là

một dân tộc phía nam sông Dương tử (Yangtze River) nắm giữ một vai tṛ căn bản trong Trung Tâm Văn Hóa Ḥa B́nh đă di dân vào thiên kỷ thứ năm TCN qua tỉnh Szechwan đến bờ sông Wei (sông Vị) lập ra nền văn minh thời đồ đá mới của Trung Quốc. Khi họ đi qua vùng Ngưỡng Thiều họ đă để lại chữ viết hoàn hảo của họ trong đó không có dấu vết nào của chữ tượng h́nh mà chỉ có chữ hội ư, h́nh thanh, chuyển chú và giả tá. Đây là lư do thích đáng nhất và duy nhất có thể giải thích được tại sao chữ giáp cốt giống :

 

**a- chữ viết trên hai chiếc đĩa gốm nhỏ ở vùng Văn Hóa Ḥa B́nh tại Việt Nam,

**b- chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn (Việt Nam) và

**c- hai chữ Việt bộ Mễ và chữ Việt bộ Tẩu mà sau này cũng được t́m lại trong Sấm

        Ngữ hay Giáp Cốt Văn vào năm 1899. 

Rơ ràng người Tàu không phát minh ra chữ giáp cốt cuối đời nhà Thương (1300 TCN) như đă lầm tưởng và ngộ nhận bởi người Tàu để che giấu sự thật lấy chữ viết Việt tộc tạo ra chữ Hán ngay từ thời Chu Tuyên Vương (827 TCN-782 TCN).  

     

   2-Chữ hội ư của giáp cốt văn thành lập không cần chữ tượng h́nh là trái với Lục Thư. Vậy Lục Thư trở thành “Vô Dụng”.  Nói đúng hơn Lục Thư không phải do người Tàu

phát minh. Chữ hội ư cũng không phải do người Tàu phát minh mà do một dân tộc nào khác phát minh ra Lục Thư. Đó là dân Bách Việt như đă tŕnh bày trên H́nh 8.

 

   3-Chữ giáp cốt giống chữ viết trên hai đĩa gốm nhỏ do Madelaine Colani đào quật ở vùng Văn Hóa Ḥa B́nh tại Việt Nam với niên đại 8.000 TCN, tức là 6.700 năm trước chữ giáp cốt cuối đời nhà Thương.  Vào thời điểm đó (8.000 TCN) người Tàu chưa có chữ viết, chưa có lịch sử ở Á châu, chưa có sự hiện diện ở lưu vực sông Hoàng Hà. Nó cũng giải thích được tại sao chữ giáp cốt không có chữ tượng h́nh mà vẫn thành lập được chữ hội ư v́ chữ viết của dân Ḥa B́nh đă vượt xa giai đoạn căn bản thuần túy tượng h́nh đến giai đoạn cuối cùng là giả tá rồi.

 

  4-Chữ giáp cốt cũng giống chữ viết trên các đồ đồng Đông Sơn với niên đại 2000 TCN, tức là 700 năm trước chữ giáp cốt cuối đời nhà Thương. Ta thấy rơ rằng chữ giáp cốt, chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn và chữ  trên 2 chiếc đĩa gốm nhỏ t́m thấy ở Ḥa B́nh Việt Nam là một thứ chữ viết.  Chúng thuộc về gia đ́nh chữ khoa đẩu của Bách Việt.

 

   5-Nếu chữ giáp cốt cuối đời nhà Thương (1300 TCN) là do người Tàu phát minh và xuất hiện 250 năm trước khi nhà Thương bị tiêu diệt vào năm 1050 TCN th́ lịch sử nhà

Thương phải được viết lại lâu rồi không phải đợi nhiều thế kỷ sau nữa mới được viết lại bởi nhà Chu. “Quan niệm chữ giáp cốt cuối đời Thương 1300 TCN do người Tàu phát

minh” là chuyện hoan tưởng mà người Tàu tạo dựng lên, không có giá trị lịch sử, để che đậy việc họ lấy chữ viết Việt tộc tạo ra chữ Hán từ thời Chu Tuyên Vương. Họ không nhận chữ giáp cốt là nguồn gốc của chữ Hán, mặc dầu họ đồng hóa chữ Hán với chữ giáp cốt, là bằng chứng hiển nhiên của sự hoang tưởng đó.   

Kết luận tất nhiên là :  

 

      1- Chữ Lạc Việt (4000 TCN-6000 TCN) giống chữ dân Ḥa B́nh, chữ trên đồ đồng Đông Sơn và chữ giáp cốt (sấm ngữ) chứng minh một cách tuyệt đối là người Tàu không phát minh ra chữ giáp cốt cuối đời Thương và họ lấy chữ khoa đẩu cuả Việt tộc tạo ra chữ Hán. Tác giả bài “Chữ Hán và Kư hiệu” ( Chinese Scripts and Symbols) thú nhận rằng “chữ giáp cốt 1200 TCN là một hệ thống chữ viết rất phát triển. Một hệ thống phức tạp và tân tiến như thế phải có một lịch sử của nó nhưng cho đến bây giờ chúng tôi c̣n chưa phát hiện ra dấu vết nào của cái lịch sử đó cả”. Bài Chữ Hán và Kư Hiệu trực tiếp nh́n nhận rằng chữ giáp cốt không được phát minh trong ṿng 3.000 năm trước Công Nguyên tại vùng Văn Hóa Ngưỡng Thiều.

 

    2- Chữ gọi là Chữ Hán hơn 3.000 năm lịch sử thực sự là chữ Lạc Việt với niên đại 12.000 TCN – 15.000 TCN mà người Tàu chiếm đoạt bằng bạo lực.  

 

    3- Chữ giáp cốt cuối đời nhà Thương và Lục Thư  không do người Tàu phát minh.

 

    4- Chữ Hán (827 TCN) có nguồn gốc với chữ Đại triện dưới thời Chu Tuyên Vương.

 

    5- Chữ viết Việt tộc là chữ cổ nhất thế giới với niên đại từ 12.000 TCN-15.000 TCN..

 

    6- Chữ Hán (827 TCN) có nguồn gốc từ chữ viết của Việt tộc (15.000 TCN) . 

 

    7- Dân Bách Việt là chủ thể của nền Văn Hóa Ḥa B́nh.

 

    8- Những thuyết cao siêu như Kinh Dịch, Âm Dương, Hà Đồ, Lạc Thư… có nguồn gốc từ nền Văn Hóa Ḥa B́nh.

   

XVI- Tài liệu tham khảo :

 

1-Vũ Thế Ngọc, Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt 1989, Eastwest Institute, Ngôn

    Ngữ Văn Tự Việt Nam, Nhà In Mai Anh, 2148 Carobwood Lane, San Jose, CA 95132.

2-Lịch sử chữ viết Việt Nam. Ficland Info Internet.

3-Lăn Miên, Dân gốc bản địa Đài Loan có chữ viết không ?, Trung Tâm Nghiên Cứu Lư

    Học Đông Phương, Internet.

4-Jonathan Fenby, China’s Imperial Dynasties 1600 BC – AD 1912, Metrobooks, 122

    Fifth Avenue New York, N.Y. 10011.

5-Du Miên Lê Thanh Hoa, Việt Nam Suối Nguồn Văn Minh Đông Phương, Trung Tâm

    Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam, 10872 Westminster Avenue, Suite 214-215, Garden

    Grove, CA 92843, USA.

6-Harry N. Abraham, Inc., Writing : The Story of Alphabets and Scripts, 100 Fifth

    Avenue, New York, N.Y. 10011.

7-Đổ Thành, Bách Việt Sử : Những Lớp Bụi Mờ của Lịch Sử,

   www.vietnamvanhien.net/bachviet su.html

8-Lê Văn Ẩn, Viet linhnam,

http://www.mevietnam.org/Ngon Ngu/Iva-Viet.html

9- Lí Nhỉ Chân, Đại ‘Văn’ Chấn : t́m được chữ Lạc Việt TT?, www.news cn.

 

Bác sĩ Nguyễn Thành Đệ

 

bài đă phổ biến ở  tập san Y Sĩ Canada, trước khi tác giả qua đời.

Vuông Chiếu nhận từ bác sĩ Nguyễn Ngọc Lang (Văn Ngọc) chuyển