Trích Dn Văn Ca Sartre

(TUẦN TỰ THEO LỜI GIỚI THIÊỤ CỦA PHÙNG THĂNG TRONG BẢN DỊCH CUỐN “BUỒN NÔN”)

Trn Văn Nam

 

 

 

 

 

 

 

Bản dịch tác phẩm “Buồn Nôn” của Jean Paul Sartre được nhà xuất bản An Tiêm tại Sài G̣n ấn hành năm 1967, đúng vào thời kỳ chiến tranh ác liệt tại Miền Nam. Dân chúng Miền Nam đang ở vào t́nh trạng mong chiến tranh chấm dứt, riêng thanh niên th́ ưu tư vấn đề nhập ngũ vô kỳ hạn. Tin tức các mặt trận đổ về dồn dập, tin ḥa đàm đang tiến hành tại Paris: tất cả đă làm lu mờ ảnh hưởng của Triết Lư Hiện Sinh mà cao điểm chỉ ở vào những năm đầu của thập niên 1960. Đáng lẽ chiến tranh không lối thoát c̣n đó th́ triết lư chán chường cuộc đời phải tăng theo, tại sao Triết Lư Hiện Sinh lại từ từ hết ảnh hưởng? Bởi v́ con người phải lo âu những điều cụ thể như sinh kế, vật giá leo thang, nhập ngũ, thân nhân tử trận, trông ngóng ḥa đàm… cho nên những thắc mắc siêu h́nh như “hiện-hữu phi-lư” hay “tồn-tại bất-đắc-dĩ”… không phải là những điều trước mắt phải đối mặt.Triết Lư Hiện Sinh, đă có những công kích v́ lư do chính trị như văn hóa đồi trụy của đế quốc; hay được phản hồi trái ngược bởi tư tưởng vô thần chất chứa nơi triết lư của Sartre; hay những mô tả hiện sinh về thân xác bị các nhà đạo đức phê phán; và riêng các nhà thơ thường đào sâu để thấu hiểu những mơ hồ ngôn ngữ chất chứa trong triết lư của Heidegger… Hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt như vậy, nên có người th́ thờ ơ sự xuất hiện của bản chuyển ngữ cuốn “Buồn Nôn” (La Nausée, xb. 1938) của dịch giả Phùng Thăng ; một đôi người nơi đô thị chưa trực diện hằng ngày với chiến tranh th́ vẫn tiếp tục c̣n bị lai văng những thắc mắc siêu h́nh. Con số những người được huy động vào chiến cuộc, kể cả gia đ́nh liên hệ, nhiều hơn số người c̣n ở trong môi trường thắc mắc triết lư. Cho nên có thể nói cuốn “Buồn Nôn” đă xuất hiện không hợp thời hợp cảnh lắm. V́ vậy cuốn sách chưa được khách quan đánh giá ở khía cạnh bút pháp mô tả trực giác về hiện sinh của Sartre; không được làm sáng tỏ công lao của dịch giả Phùng Thăng muốn phổ biến một tác phẩm độc đáo của văn học Pháp. Thời kỳ bị nh́n ngắm khắc khe v́ lư do chính trị, lư do tôn giáo, lư do đạo đức…  đă trôi qua; bây giờ tác phẩm “Buồn Nôn” của dịch giả Phùng Thăng đă được tái bản ở trong nước Việt Nam năm 2008 do nhà xuất bản “Văn Hóa Sài G̣n”, với các lời đánh giá đáng lưu ư của báo SGTT ở trong nước như sau: “Đây là một trong những cuốn sách khó đọc, nhưng được xem là giá trị nhất của nhân loại trong thế kỷ 20. Cuốn sách có sự ảnh hưởng nhất định đến văn học đô thị Sài G̣n trước 1975 và cả một số nhà văn trẻ đương đại dù bối cảnh đă khác”. Và bây giờ ta nên tuần tự trích dẫn văn của Sartre qua lời giới thiệu xuyên suốt của dịch giả Phùng Thăng. Ta nói lời giới thiệu xuyên suốt, có phải là quá đề cao? Có phải do thiên lệch v́ ta bị xúc cảm bởi cái chết thảm khốc của dịch giả Phùng Thăng? (Công Tằng Tôn Nữ Phùng Thăng vượt biên năm 1975, bị quân của Pol Pot bắt ở quần đảo Nam Du, bị đưa về Kampuchia lao dịch; rồi quân Pol Pot thảm sát cả hai mẹ con - dựa vào tin tức của Nguyễn Đạt, trong bài “Kư Sự Về Miền Tây”, nguồn internet do nhà văn Trần Hoài Thư ghi lại). Không phải như thế, mà do những chủ đề triết lư hiện sinh và bút pháp thể hiện Hiện Tượng Học của Sartre được ghi khá đầy đủ trong “Lời Giới Thiệu” của Phùng Thăng, trang bị trước những chỉ-dấu cho ta khi đi vào bản dịch. Ta cũng cần nên biết dịch giả Phùng Thăng chỉ mới hơn 20 tuổi khi dịch cuốn sách này. Biết như vậy để ta lưu ư khả năng của dịch giả, ngoài sự hiểu biết ngoại ngữ Pháp, c̣n với sự hiểu biết triết học của Phùng Thăng, qua những chỉ-dấu kiến thức trong “Lời Giới Thiệu” đă kể trên. So với những lời giới thiệu hoặc tóm tắt tác phẩm mà người viết bài này đă đọc qua, th́ lời giới thiệu của Phùng Tăng là xuyên suốt về nghệ thuật và triết lư của Sartre. Kiểm lại, như nơi cuốn “Những Tác Phẩm Lớn Trong Văn Chương Thế Giới” của Vũ Dzũng (do nhà xb. Khai Hóa in năm 1973, nhà xb. Văn Học trong nước tái bản năm 1998), tác giả biên soạn tuy tóm tắt khá chi tiết cuốn “Buồn Nôn”, nhưng không làm lộ rơ triết lư hiện sinh trong cái nh́n sự vật. Soạn giả chỉ nói nhân vật cảm giác buồn nôn do thấy sự vật hay cuộc đời phi lư. Ta nghĩ “cảm giác” chưa phải là “ư-thức hiện sinh” được đào xới bằng nh́n ngắm trực quan theo Hiện Tượng Học của Husserl mà Sartre muốn áp dụng. Soạn giả Vũ Dzũng cũng nói việc nhân vật có sự lưa chọn sau cùng là viết cho xong một cuốn sách trong cuộc đời mọi sự đều đáng chán trong thành phố Le Havre, thành phố biển triết gia Sartre từng là thầy giáo Trung học (Sartre đặt tên khác trong sách là thành phố Bouville), nhưng không đá động đến một trong những chủ đề của triết lư hiện sinh: Hiện hữu Phi lư nhưng con người có Trách Nhiệm Tự Do Lựa Chọn một cách Dấn Thân. Trong cuốn sách đồ sộ khác, cuốn “108 Nhà Văn Thế Kỷ 20-21” của soạn giả Đoàn Tử Huyến do Nhà Xuất Bản Lao Động ấn hành tại Hà nội năm 2011, soạn giả có nói chủ đề triết lư ấy, chủ đề “Hiện Hữu Phi Lư Nhưng Ta Có Tự Do Lựa Chọn Trách Nhiệm” (soạn giả này đặt tựa đề rất hay cho triết lư của Sartre: “Người Bị Kết ÁnTự Do”). Tuy nhiên, soạn giả nói rằng sự Tư Do Lựa Chọn của nhân vật là đi vào con đường nghệ thuật (tức viết một tác phẩm văn chương). Theo ta nghĩ việc viết sách của nhân vật không phải là lựa chọn đi về hướng nghệ thuật mà chỉ là để giải thoát ám ảnh buồn nôn, để không “kinh tởm cuộc đời ḿnh” (nhân vật thực sự không làm việc ǵ kinh tởm, kinh tởm ở đây chỉ là trực giác hiện hữu phi lư). Soạn giả cũng nói “cảm giác buồn nôn”, sau đó nói đến “nhận thức buồn nôn”, nhưng chưa đề cập đến sự đào sâu “ư thức Hiện Tượng Luận buồn nôn” thành cả một thiên Triết Lư Hiện Sinh của Sartre. Trên Internet, thêm một bài khá dài của tác giả Kim Trần, bài “Chủ Nghĩa Hiện Sinh”, trong ấy ta kiểm điểm nhận ra gần đầy đủ những chủ đề tác phẩm “Buồn Nôn” chứa đựng: “Ư Thức Hiện Sinh Phi lư”; “Ám Ảnh Về Hư Vô”, “Không Tán Đồng Triết Lư Duy Lư Muốn Duy Tŕ Những Giá Trị Cựu Truyền”, “Kỹ Thuật Mô Tả Hiện Tượng Luận”, “Tự Do Lựa Chọn Một Cách Dấn Thân” (Độc giả có thể t́m đọc trong “Hội Quán Mọt Sách” của Blog điện tử  “forum.motsach.info”). Bài vừa nêu trên như vậy tương đương với những lời giới thiệu của dịch giả Phùng Thăng. “Lời Giới Thiệu” của Phùng Thăng chưa quá một trang mà cũng đầy đủ các chủ đề của Triết Lư Hiện Sinh như trên. Hầu như bài giới thiệu nào cũng nói tác phẩm “Buồn Nôn” khó đọc. Theo thiển nghĩ th́ nó không khó đọc, nhưng khó muốn đọc hết một lần nếu ta định biết cốt truyện. Nhiều đoạn mô tả cận gần đến chân lông sợi tóc về thân xác, cặn kẽ như trên mặt hành tinh nguyệt cầu, khiến ta không có ấn tượng đẹp (người nữ sà xuống quá gần để khêu gợi khiến người nam buồn nôn); hoặc mô tả cử chỉ đồng tính luyến ái (bàn tay của hai người nam quyện lấy nhau); hoặc nhiều đoạn dài ḍng về lịch sử một nơi chốn; hoặc lai văng khắp nơi những “buồn nôn-phi lư” được lặp đi lặp lại như điệp khúc… Trong khi đó, có những đoạn mô tả độc đáo về hiện hữu (không phải chỉ như từ ngữ trừu tượng) mà là trực quan chỉ triết gia Sartre mới tiếp cận được như vậy, và với những ư tưởng về hiện sinh lạ lùng. Những đoạn hay ấy nằm rải rác trong “Buồn Nôn”, đôi người chỉ đọc được một ít câu chuyển ngữ trong sách báo Việt ngữ trước khi có dịch phẩm “Buồn Nôn” của Phùng Thăng; chẳng hạn vài câu ở trong cuốn “Đi T́m Một Căn Bản Tưởng” của Nghiêm Xuân Hồng (xuất bản năm 1957); kể cả một số câu diễn ư mà không dịch nguyên văn qua các bài báo viết về Triết Lư Hiện Sinh liên hệ đến tác phẩm tiểu thuyết của Sartre. Cuốn “Buồn Nôn” là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị trong văn học Pháp. Nếu độc đáo ở tư tưởng mà thôi th́ ta chỉ cần đọc những bài bàn luận về nó th́ cũng tạm biết, nhưng điều ta cần học hỏi và cảm nhận là ở bút pháp Hiện Sinh, mô tả Hiện Tượng Luận. Qua cuốn sách chuyển ngữ của Phùng Thăng, ai không rành về Pháp ngữ, có thể cảm nhận được văn chương của Sartre. Vậy, ta hăy bắt đầu đọc những trích dẫn văn của Sartre, tuần tự theo “Lời Giới Thiệu” của dịch giả, gồm có: Phương Pháp Mô Tả Hiện Tượng Học; Giá Trị Về Phương Diện Thẩm Mỹ; Chất Men Gợi Dậy Cơn Buồn Nôn Qua Cảm Nhận Dư Thừa Và Phi Lư; Khai Từ Thơ Mộng Cho Thiên Triết Luận Hữu Thể Và Vô Thể; Hiện Hữu Phi Lư Nhưng Ta Có Tự Do Lựa Chọn Trách Nhiệm. (Như vậy, tất cả những từ ngữ lấy làm tiêu-đề dưới đây đều được gợi ư do Phùng Thăng). Nói tuần tự cho có sự sắp đặt, thật ra th́ những ư tưởng hiện sinh như Hiện Hữu, Buồn Nôn, Dư Thừa, Phi Lư, Hư Vô… trộn lẫn vào nhau, cùng hiện diện đôi khi chỉ ở trong một câu. Sắp đặt theo tuần tự chỉ là theo những điều nào đề cập trước, đề cập sau, trong lời giới thiệu của dịch giả Phùng Thăng. Vậy, bây giờ ta đi vào phần trích dẫn văn của Jean Paul Sartre qua văn dịch Việt ngữ của Công Tằng Tôn Nữ Phùng Thăng:

1/ Hiện Sinh Qua Mô Tả Hiện Tượng Luận (Sartre viết văn áp dụng Triết Lư Trực Quan Cụ thể của Husserl): … hiện tại đă là cái đang hiện hữu, và tất cả những ǵ không hiện tại th́ cũng không hiện hữu. Quá khứ không hiện hữu. Hoàn toàn không… Giờ đây, tôi đă biết rơ; toàn thể những sự vật chỉ là những lộ diện của chúng - và đằng sau chúng, tuyệt chẳng có ǵ (Chú thích của người viết bài: Theo Husserl, Ư Thức là Ư thức về một điều ǵ, vậy chỉ có Hiện tại là cụ thể xác thực, c̣n Tương lai hay Quá khứ đều hư vô đối với Ư thức hay Ư-Hướng-Tính). Mới lúc năy đây, tôi ngồi trong một công viên. Rễ một cây bám sâu vào đất, ngay dưới chiếc băng tôi đang ngồi. Tôi không c̣n nhớ đấy là một chiếc rễ cây nữa. Những chữ đă tan biến và cùng với chúng là ư nghĩa của các vật thể… đối diện với cái khối đen đũi, sần sùi, hoàn toàn thô lậu và gây cho tôi một nỗi sợ hăi kia. Và rồi, trí óc tôi bừng ngộ. Điều liễu ngộ đó cắt đứt hơi thở tôi. Những ngày trước đây, chẳng bao giờ tôi cảm nghiệm được từ ngữ “hiện hữu” mang ư nghĩa ǵ… thường thường hiện hữu ẩn mặt đi. Hiện hữu đấy, chung quanh chúng ta, ngay trong chúng ta, nó là chúng ta… đột nhiên nó đó, nó rơ ràng như ban ngày; được vén màn che… tính chất khác biệt của những sự vật, tính chất cá thể của chúng chỉ là một ngoại cảnh, một lớp sơn phủ ngoài. Lớp sơn này đă chảy tan ra, chỉ c̣n lại những khối dị h́nh và mềm nhũn, vô trật tự - trần truồng, một vẻ trần truồng kinh khiếp và thô tục. (Dịch giả Phùng Thăng dùng từ ngữ liễu-ngộ trong triết học Phật Giáo, chắc tương đồng với từ ngữ trực-quan cụ-thể). Vào mùa hạ hay đầu mùa thu, người ta t́m thấy trong những khu vườn những mẩu giấy báo mà mặt trời đă nung chin, cứng khô và dễ vỡ như những chiếc lá rụng vàng… Vào mùa đông, những tờ giấy khác bị nện đập, nghiền nát, vấy bẩn. Chúng quay trở lại mặt đất… Chúng vặn ḿnh, dứt ra khỏi bùn lầy, nhưng là để đến nằm dài vĩnh viễn ở chỗ xa hơn một chút (Ở đây, triết gia Sartre mô tả sự vật do quan sát tỉ mỉ và khá lạ, nhưng dường như không có vẻ ǵ thuộc về triết lư hiện sinh - TVN).

2/ Giá Trị Về Phương Diện Thẩm Mỹ (Đây cũng không thuộc về chủ đề Triết lư Hiện sinh, trích dẫn v́ dịch giả Phùng Thăng có đề cập đến nét đẹp trong văn chương của Sartre. Hai ví dụ sau đây về nét thẩm mỹ ấy: một đoạn tả hoạt cảnh ngắn mà tính ra đến năm màu sắc, và một đoạn tả chuyển động của dăy phố lầu đèn vàng phản ánh trên cửa kính của chuyến tàu xe lửa đang lướt qua mau)… Thứ bảy, vào khoảng bốn giờ chiều, ở đầu lề đường lót ván của con lộ nhỏ đưa đến nhà ga, một thiếu phụ nhỏ nhắn y phục xanh da trời chạy giật lùi, vừa cười vừa vẩy chiếc khăn tay. Đồng lúc, một người da đen vận áo mưa màu kem, giày vàng, đội mũ xanh lá cây, đang đổi hướng đường cho xe lửa và huưt c̣i. Người thiếu phụ va phải anh ta, luôn luôn là ở tư thế chạy giật lùi ấy, bên dưới một ngọn đèn treo lơ lửng trên hàng rào và sẽ được thắp lên vào chiều tối. Vậy là cùng lúc, đă có cái hàng rào nồng nặc mùi gỗ ẩm, chiếc đèn lồng nọ, người thiếu phụ nhỏ nhắn tóc vàng kia ở trong ṿng tay của người da đen, dưới một bầu trời lửa… Ṭa nhà vàng di chuyển, bằng một bước nhảy, nó phớt chạm vào những khung cửa kính, nó quá gần đến độ người ta chỉ c̣n thấy được một phần, rồi tối sầm lại. Những khung cửa kính rung chuyển. Ṭa nhà dựng cao lên, choáng ngợp, cao quá mức đến độ không thể nh́n thấy, với hàng trăm cửa sổ mở ra những khoảng trống đen ng̣m, nó lướt dài theo toa… Và đột nhiên, ṭa nhà không c̣n nữa, nó đă lưu lại đằng sau, một làn ánh sáng chói chang màu xám tràn ngập toa tàu… đấy là bầu trời xuyên những khung cửa kính.

3/ Chất Men Gợi Dậy Cơn Buồn Nôn, Ấy Là Dư Thừa và Phi Lư - Vào cùng giờ này, sau bữa ăn thịnh soạn và dài dặc ngày chủ nhật, họ đang đứng dậy khỏi bàn, và đối với họ, một cái ǵ đó đă chết đi. Ngày chúa nhật đă làm ṃn tuổi thanh xuân nhẹ nhàng của họ… (Một đoạn khác) Vào lúc trời quang, những thanh âm đột nhập bằng đầu mút này của thành phố và thoát ra bằng đầu mút kia, sau khi đă xuyên qua tất cả những bức tường… Tôi sợ hăi những thành phố. Nhưng chẳng nên bước ra khỏi chúng. Nếu phiêu lưu quá xa sẽ gặp địa hạt của Thảo Mộc. Thảo Mộc đă ḅ lan suốt nhiều cây số về hướng thành thị. Nó đang chờ đợi khi thành phố chết, Thảo mộc sẽ mọc đầy… (Một đoạn khác) Tôi hiểu rồi: thành phố đă bỏ rơi tôi trước. Tôi chưa ra khỏi Bouville nhưng tôi đă không c̣n đó nũa. Bouville im tiếng… Tôi nhấm nháp t́nh trạng bị quên lăng hoàn toàn mà tôi đang rơi vào. Tôi đang ở giữa hai thành phố, một chưa biết đến tôi và một không c̣n biết đến tôi nữa… (Một đoạn khác)… họ chưa cảm nghiệm được tính chất dư thừa, nghĩa là vô định h́nh và mơ hồ, buồn bă… Hiện hữu không phải là một cái để ta suy tưởng từ đàng xa: nó phải đột ngột tràn ngập, xâm chiếm lấy anh… (Một đoạn khác)… ư thức về sự kiện ḿnh đang hiện thể một cách dư thừa. Ư thức ḥa tan, phân tán, ư thức t́m cách tự đánh mất ḿnh giữa bức tường nâu, dọc theo dăy đèn lồng hay trong làn khói chiều đang nhẹ tỏa dưới kia… (Một đoạn khác) Tôi rụt bàn tay lại, đút vào trong túi quần. Nhưng lập tức, xuyên qua lần vải, tôi cảm nghiệm được hơi ấm của bắp đùi. Ngay tức khắc, tôi rút tay ra khỏi túi; tôi để tay ḿnh treo dựa trên lưng ghế. Bây giờ đây, tôi cảm thấy sức nặng của bàn tay ở đầu cánh tay. Bàn tay hơi co lại, mềm èo, nhăo nhuột, bàn tay đang hiện hữu. Tôi chẳng nằn ń thay đổi nữa, bất cứ nơi nào tôi đặt bàn tay xuống, bàn tay vẫn tiếp tục hiện hữu và tôi sẽ tiếp tục cảm nghiệm rằng nó đang hiện hữu; tôi không thể nào thủ tiêu bàn tay đi được, cũng như chẳng thể thủ tiêu được phần c̣n lại của thân thể… (Một đoạn khác) Tôi đọc thấy trong đôi mắt ông một lời phán đoán yên lặng và ghê gớm khôn nguôi. Lúc bấy giờ tôi bừng hiểu ra tất cả những ǵ đang chia cách chúng tôi: những ǵ mà tôi suy nghĩ về ông lại chẳng đạt tới được ông… Nhưng lời phán đoán của ông xuyên thủng tôi như một lưỡi gươm và đặt thành vấn đề ngay cả cái quyền được hiện hữu của tôi (Sau tác phẩm “Buồn Nôn”, Sartre có một câu thường được nhắc nhở: Địa Ngục Chính Là Những Kẻ Khác - TVN)

4/ Khai Từ Thơ Mộng Cho Thiên Triết Luận Hữu Thể Và Vô Thể - Kế đó, tại Sài G̣n, khi tôi quyết định trở về Pháp, tất cả những ǵ c̣n lưu giữ trong tôi - những khuôn mặt xa lạ, những công trường, những bến tàu dọc theo sông dài - tất cả đều bị tan biến vào hư vô… Vào chiều tối, chuyến tàu điện ngang qua khách sạn Printania không mang theo nơi mặt kính toa tàu phản ảnh của tấm bảng hiệu bằng đèn ống; nó chỉ bừng sáng lên trong một khoảnh khắc rồi chạy xa dần với những khung cửa tối đen… (Một đoạn khác) Tôi nh́n thấy tương lai. Nó đấy, nó được bài trí ra trên đường, hơi xanh xao hơn hiện tại chút đỉnh… Người đàn bà xa dần trong bước chân khập khiễng, bà ta ngừng lại, vén lọn tóc màu xám vừa xổ tung ra khỏi chiếc khăn choàng. Bà bước  đi, bà ở kia, bây giờ bà đang ở đây… Tôi không c̣n phân biệt được hiện tại với quá khứ nữa… người đàn bà tiến bước  trên con đường hoang bóng người: bà di động đôi giày đàn ông to lớn của ḿnh. Đấy, đấy là thời gian, thời gian trơ trụi, nó đến chậm răi với cuộc nhân sinh, nó làm người ta chờ đợi và khi nó đến, người ta đâm ra phiền tởm v́ nhận ra rằng nó đă hiện hữu ở đấy lâu rồi. Người đàn bà tiến đến gần góc đường, bây giờ chỉ c̣n lại như một đống nhỏ vải đen… Bà ta sắp sửa rẽ ở góc đường, bà ta rẽ vào trong - trong một thời gian miên viễn (Triết gia Sartre trực cảm nỗi buồn nhân sinh: rồi ai cũng sẽ chạm trán với thời gian tàn tạ; qua h́nh ảnh bà già tóc trắng áo đen, mang đôi giày to lớn dị hợm; mất vào nơi không c̣n ǵ nữa - TVN)

5/ Hiện Hữu Phi lư Nhưng Ta Bị Ràng Buộc Có Tự Do Lựa Chọn Một Cách Ở Đời - Tôi biết rất rơ rằng tôi chẳng hề muốn làm bất luận điều ǵ: làm một điều ǵ, tức là tạo ra hiện hữu… Sự thật là tôi không thể buông viết được: tôi tin rằng tôi sắp chạm trán với cơn Buồn Nôn và tôi có cảm tưởng làm chậm nó lại được bằng cách viết lan man. V́ vậy tôi viết bất cứ chuyện ǵ thoáng qua đầu tôi (Đây là chỉ dấu cho ta biết đừng đi t́m cốt truyện trong cuốn Buồn Nôn, và ta có thể đọc bất cứ đoạn nào cũng được. Ở đâu trong suốt cuốn sách, ta sẽ bắt gặp đó đây những Hiện Hữu, những Phi Lư, những thẩm thấu Dư Thừa của Hiện Sinh. Như vậy, theo thiển nghĩ: cuốn sách không phải khó đọc - TVN). (Đoạn khác, tiếp tục nói về sự Lựa Chọn Dấn Thân). Cuộc đời có một ư nghĩa nếu ta muốn ban cho nó một ư nghĩa. Trước hết, phải hành động, lao ḿnh vào một công việc. Sau đó, nếu phản tỉnh lại th́ sự việc đă nhất định rồi, người ta đă bị đưa vào cuộc. (Một đoạn khác) Một cuốn sách. Dĩ nhiên, thoạt tiên đó chỉ là một công việc đầy buồn chán và làm ta mệt mỏi, nó không ngăn cản tôi tiếp tục hiện hữu và cảm nghiệm rằng ḿnh đang hiện hữu… xuyên qua nó, có lẽ tôi có thể nhớ lại mà không kinh tởm cuộc đời ḿnh… Con lộ nhỏ dẫn đến nhà ga mới bốc lên nồng nặc mùi gỗ ẩm: ngày mai mưa sẽ rơi trên thành phố Bouville (Cuốn “Buồn Nôn” chấm dứt ở câu cuối cùng này).

TRẦN VĂN NAM (City of Walnut, California