Phan Văn Thnh

“Bay đi nhng cơn mưa phùn”

 Phm Công Thin - 

C̣n Đó Mt Góc Tri

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1- Tôi vẫn c̣n lưu giữ và cũng không quên một chiều cuối tuần Saigon đầu thâp niên 70 thế kỷ trước – một ḿnh lang thang qua phố Lê Lợi ghé ngang hiệu sách Khai Trí mang về “Bay đi những cơn mưa phùn” - Phạm Công Thiện - (NXB Phạm Hoàng,Saigon1970).

    Cũng như nhiều bạn trẻ SVHS ngày ấy, đứng dưới chân núi nh́n lên ngất ngưởng đầu non, tôi rất thần tượng tác giả Phạm Công Thiện.

    Sau này thông tin nhiều hơn, tôi được biết ông sở hữu một “lư lịch khoa học” đáng nể để làng văn Saigon trước 75 có b́nh phẩm ǵ cũng phải kiêng dè, ngă mũ chào.

    Phạm Công Thiện ra đời (01/6/1941) bên ḍng Tiền giang thơ mộng, ven bờ phố thị Mỹ Tho, một thị xă nhỏ nhắn, lặng lẽ hiền ḥa ở miền Nam.

Ông xuất hiện trên văn đàn Việt Nam như một “thần đồng” - một thiên tài lỗi lạc biết nhiều thứ tiếng:Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hán, Phạn, Pali,Tây Tạng, Tây Ban Nha…

    - Năm 1957,mới 16 tuổi đă xuất bản tự điển “Anh ngữ Tinh âm” - 19,20 tuổi viết “Ư thức mới trong văn nghệ và triết học” - 23 tuổi, viết “Tiểu luận Bồ Đề Đạt Ma” -25,26,27 tuổi,viết “Hố thẳm tư tưởng”,“Im lặng hố thẳm”,“Ư thức bùng vỡ”,“Bay đi những cơn mưa phùn”,“Ngày sinh của rắn”,“Mặt trời không bao giờ có thực”,“Nikos Kazantzaki”,“Rainer Maria Rilke”,“Henry Miller”…

Ông đă dịch thuật từ tiếng Anh, tiếng Đức những tác giả vĩ đại: Krishnamurti, Nietzsche, Heidegger, Rainer Maria Rilke, Nikos Kazantzaki … làm chấn động giới văn nghệ sĩ trí thức Sài G̣n miền Nam thời bấy giờ.

 - Đầu năm 1964, ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng sau một cuộc "khủng hoảng tinh thần".Tại đây ông quy y ở chùa Hải Đức, lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài G̣n.

- Từ 1966 đến 1970, Phạm Công Thiện làm Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh(Saigon), đồng thời là giám đốc soạn thảo Chương tŕnh giảng dạy cho tất cả các phân khoa Xă hội Nhân văn và chủ biên tạp chí Tư Tưởng cùng với những tên tuổi: Bùi Giáng,Tuệ Sỹ, Hoài Khanh, Lê Mạnh Thát, Nguyễn Đăng Thục, Ngô Trọng Anh, Thạch Trung Giả, Trúc Thiên, Lê Tôn Nghiêm, Doăn Quốc Sỹ, Nghiêm Xuân Hồng, Trần Ngọc Ninh, Phạm Thiên Thư, Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Hữu Hiệu,Thích Nữ Trí Hải…- những cây bút cốt cán trong tạp chí Tư Tưởng, tiếng nói của Viện ĐH Vạn Hạnh ở Sài G̣n, do Thượng tọa Thích Minh Châu làm Viện trưởng.

   Nhà thơ đă từng ngao du sơn thủy nhiều nơi qua Paris, London, New York,Washington - từng diện kiến, tiếp xúc với những nhân vật kiệt xuất nổi danh trên thế giới như Krishnamurti, Henry Miller.

Từ năm 1970, ông rời Việt Nam chuyển sang sống ở Israel, Đức, trụ lại lâu dài tại Pháp - tốt nghiệp Tiến sĩ Triết học tại ĐH Sorbone – giảng dạy triết học Tây phương tại ĐH Toulouse (Pháp).

Năm1983, định cư ở Los Angeles (Hoa Kỳ) giữ chức giáo sư Phật Giáo viện College of Buddhist Studies - tiếp tục viết sách - phần lớn nghiên cứu về đạo Phật.

Ngày 8/3/2011(mùng 04 tháng Hai năm Tân Măo), ông qua đời tại thành phố Houston,Texas,Hoa Kỳ,trụ thế 71 năm.

 

    2- Phạm Công Thiện trước tác nhiều thể loại truyện ngắn,tùy bút,thơ,dich thuật, khảo luận.Tác phẩm của ông thuôc loại khó nuốt nhưng lại có sức cám dỗ kỳ lạ.Trang viết đầy chữ - mỗi đơn vị chữ đồng thời là hồn vía của ư,lối viết phá cách đầy ngẫu hứng khiến người đọc hoặc tùy nghi suy diễn mông lung hoặc bó tay không hiểu ông muốn nói cái ǵ ?

    Ông viết theo kiểu“Tôi tư duy,nên tôi tồn tại” – (Je pense,donc je suis) René Descartes(1596-1650).Ông khua khoắng con chữ,hiện thực trong tay ông được ghi chép,phản ánh xô bồ tùy tiện .Ông mở ra “hố thẳm tư tưởng” - ông “hành hạ” người đọc,bắt họ phải ra sức truy t́m cái tôi cảm xúc,cái tôi nhận thức,cái tôi tồn tại trong ma trận chữ nghĩa ngẫu hứng lênh láng,trùng trùng những ẩn dụ,những liên tưởng rối rắm,bực bội đến thú vị !…

   - “Hắn ho khan vài tiếng cho đỡ buồn;trời lạnh quá,im lặng quá,nhiều khi ḿnh phải bày đặt ho khan để thấy rằng ḿnh vẫn c̣n đó,vẫn sống,vẫn thở và thổi những cơn mưa phùn vào nghĩa địa của ngoại ô đầu thu.Đầu thu hay cuối thu ?A,tôi phải đi.Paris chỉ nằm bên kia sự chết: Saigon,Hà Nội,Huế,Đà Lạt chỉ là thành phố Paris nằm bên kia sự chết .Giết hết tất cả những thành phố,bôi sạch chữ Paris trong tâm hồn ḿnh,bôi tên,quên họ,bỏ quốc tịch,vứt lại đằng sau lưng những bao thuốc lá xanh,vứt lại đàng sau lưng những con đường rầy,những đêm tối,những mùa xuân,những quê hương.Làm một kẻ phản quốc,phản bội bạn bè,phản bội tổ tiên,phản bội văn chương,phản bội tùy bút,truyện ngắn và truyện dài.Trung thành với nỗi chết xa và gần,nỗi chết long đong,nỗi chết của những cơn ho gượng,ho cho đỡ buồn.Chỉ có những cơn ho khan là quan trọng,tất cả chỉ c̣n lại văn chương.”(Bay đi những cơn mưa phùn (BĐNCMP) …tr 8,9)

   - Ông nh́n h́nh thấy vong,thấy rơ sự sống trùng khít với sự hủy diệt - có/không như chiếc bánh da lợn: “Một cánh cửa mở,một người bước ra đường.Một người hay một bóng ma?Tôi là một con ma nhớ khói nhà,bước ra đường để t́m một gói thuốc Gauloises xanh,bước ra phố để đốt lên một nhúm lửa cho ấm hồn phiêu dạt.Paris phơi phới đầu xuân,những mùa xuân không bao giờ nở trọn.Tôi ca hát một ḿnh.Ma có ca hát không?Mặt trời đă nổ hôm qua.(Trời tháng Tư,BĐNCMP,tr.105).

   Ông rất tỉnh khi đang chiêm bao.Ông gợi liên tưởng đến qui luật diễn biến của tư duy - mê lầm rồi tỉnh thức,tin yêu rồi thất vọng :“Cái ǵ cũng trở thành thói quen.Ngay đến mộng ảo cũng trở thành thói quen.Tôi không ngờ Đà lạt cũng trở thành thói quen.Có một đêm,tôi nằm chiêm bao thấy ḿnh nghe chim kêu,không phải một con,hai ba con,h́nh như một bầy,hai ba bầy chim kêu.Khi thức giấc th́ chẳng nghe con nào kêu cả,tôi liền dụ dỗ tôi ngủ lại để được nghe chim kêu lại,nhưng thức tỉnh lại là một thói quen khác.(Biển xanh trộn lẫn mặt trời - BĐNCMP tr.59,60).

   Ông luôn bị ám ảnh – chẳng hạn khi nghĩ về ḍng sông thời thơ ấu : “Con sông ấy đă đầu độc tuổi thơ tôi.Những mùa nước lớn có những chiếc bè,những đám lục b́nh,những con chó chết trôi và những xác chết trôi lềnh bềnh.Người lớn và con nít gọi những xác chết trôi là “thằng chổng chết trôi”.Thường khi mưa đổ liên hồi trên mặt sông,làm nước tràn lên tận bờ.Mùa nước ṛng tôi thường đi chân xuống bờ sông để t́m những con c̣ng bé nhỏ.Mười lăm năm đầu tiên trong đời,tôi đă bị con sông đầu độc một cách tàn nhẫn,man rợ,vô phương cứu chữa…”- (Thấp thoáng bóng huỳnh trên con sông tàn bạo – BĐNCMP tr 155) .

Ngồi trong không gian Nữu Ước,ông nhớ quay quắt về Đà Lạt : “Tôi chỉ là một con ma đói ở giữa thành phố lớn nhất ở thế giới.Quán cà phê này là nơi tôi lai văng để t́m lại một chút khí dương giữa cơi chết.Đà Lạt và Nữu Ước,Đà Lạt gần gũi tôi hơn đang lúc bước vào quán cà phê ở Nữu Ước này.Tôi cần một chút Đà Lạt để sống,xin cho tôi một chút Đà Lạt,chỉ một chút,một chút thôi.Trời Nữu Ước trở lạnh,tôi cuộn khăn nỉ quanh cổ,đốt một điếu thuốc,ngồi giữa sự b́nh an của một mớ h́nh ảnh trong đầu.Một ngôi nhà to lớn,cũ,đầy rêu,nhện,chim và bồ câu,trước nhà có một hàng cây sưa cao vút và già như mấy cây thông rừng,ngôi nhà nằm trên một ngọn đồi ở ngoại ô Đà Lạt,trên đường đi về Dran.” (Thực sự hôm nay – BĐNCMP tr 80).   

Có lẽ do ông đọc quá nhiều chăng – vác nặng “bồ chữ” , nên cảm hứng của Phạm Công Thiện luôn xuất thần phóng cuồng.Ông phát ngôn như Thánh nhập,coi trời bằng vung khi phủ nhận tất cả các triết gia:“Ngay đến Heraclite,Parmenide và Empédocle,bây giờ tao cũng xem thường, xem nhẹ;tao coi ba tên ấy như là ba tên thủ phạm của nền văn minh hiện đại,chưa nói đến Socrate, đó là một tên ngu dại nhất mà tao đă gặp trong đời sống tâm linh của tao”.Ông coi những nghệ sĩ như Shakespear,Goethe,Dante hay Heidegger như những thằng hề ngu xuẩn.Và,đối với Sartre,Beauvoir : “Nếu họ muốn xin gặp tao, tao sẽ không cho gặp mà c̣n chửi vào mặt họ”. Về thiền tông : “Tao đă gửi thiền tông vào một phong b́ tối khẩn đề địa chỉ của bất cứ ngôi chùa nào trên thế giới”. Việc thụ giáo học tập: “Thời gian tao học ở Hoa Kỳ,tao đă bỏ học v́ tao thấy những trường Đại học mà tao học như Yale,Columbia chỉ toàn là nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn,ngay đến giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời,tao có thể dạy họ nhiều hơn là họ dạy tao...Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê Su hiện ra đứng giảng trước mặt tao,tao cũng không nghe theo nữa. Tao là học tṛ của tao và chỉ có tao làm thầy cho tao.Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không để ai làm thầy tao.Với các văn sĩ ở Sài G̣n: “đọc các bài thơ của các anh,tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh,sự quờ quạng lúng túng,sự lặp đi lặp lại vô ư thức hay có ư thức: trí thức “mười lăm xu”, ái quốc nhân đạo “ba mươi lăm xu”,triết lư tôn giáo “bốn mươi lăm xu” - (Hố Thẳm Tư Tưởng)

    Ông trút hết ngôn từ xưng tụng tác giả “Chơi giữa mùa trăng” : “Hàn Mặc Tử vỗ cánh phượng hoàng và bay xuống đậu giữa Thiên Thanh,Rimbaud và Hoelderlin đứng dậy chắp tay,đứng về phía trái; Keats và Leopardi đứng dậy chắp tay,đứng về phía mặt; Hàn Mặc Tử bay sà xuống đậu ngay chính giữa; ngay lúc ấy,lập tức hai Thi Sĩ bên trái và hai Thi Sĩ bên mặt qú xuống lạy ba triệu lạy; khi bốn Thi Sĩ lạy xong và ngước mặt lên th́ Hàn Mặc Tử đă vụt biến mất và hoả diệm sơn biến thành một quả trứng phượng hoàng khổng lồ: quả trứng phượng hoàng cô liêu xoay tṛn năm ṿng và thu h́nh nhỏ lại thành trái đất; từ ấy, trái đất liên tục xoay tṛn giữa vũ trụ vô biên và con người không c̣n làm thơ nữa.”

Thoạt nghe những lời lẽ“cao ngạo” của ông,thể nào cũng có người “ù tai – phẫn nộ”nhưng rồi cũng có ư kiến chia sẻ : Phạm Công Thiện "Lúc nào cũng nồng nhiệt. Lúc nào cũng rộng răi. Lúc nào cũng cực đoan. Có người cực đoan v́ đần. Phạm Công Thiện cực đoan nhưng vẫn toát lên vẻ thông minh và rất thông thái. Sự cực đoan ở nhiều người khác gợi lên ấn tượng hẹp ḥi và hung bạo. Phạm Công Thiên cực đoan một cách hồn nhiên và vô hại. Bao trùm lên tất cả, ông cực đoan một cách chân thành và duyên dáng. Đọc, thấy ngay ông cực đoan, nhưng không ai nỡ bắt bẻ. Bắt bẻ, tự nhiên có cảm giác là ḿnh tỉnh táo một cách nhỏ nhen [...] Không ít người vẫn cho văn của Phạm Công Thiện là tối tăm. Tôi nghĩ ngược lại. Vấn đề không chừng là ở cách đọc [...] Tôi đă đọc (lại) các tác phẩm của Phạm Công Thiện như đọc những bài thơ. Với một tâm cảm thơ. Và tôi thấy mọi thứ đều dễ dàng. Trong vắt .(Nguyễn Hưng Quốc - Đọc lại Phạm Công Thiện -Tiền Vệ 2009)

Tác giả Tâm Nhiên trong một bài viết(*) đă ví hành tŕnh của ông là :“Cuộc lữ dữ dội bi tráng, mở ra những phương trời hoằng viễn như Rimbaud, Hoelderlin, như Nietzsche, Henry Miller, những đồng thanh tương ứng với thi nhân nên luôn luôn xuất thần, ngất trời túy lúy, phóng cuồng phiêu đăng hoan say. Đó là những cuộc đi vô định, vô sở trú, chất ngất trên tuyệt đỉnh núi cao và hun hút tận nguồn sâu hố thẳm tâm linh, vừa bừng bừng thần khí rực ngời lửa tim hồn cháy, vừa ầm ầm cuồng nộ, trào tuôn lai láng như sóng vỗ đại dương. Cháy và chảy, cháy và chảy măi trong hồn, như một lần đặc biệt, nhà thơ đă từng nhắn gởi cho giới trẻ thanh niên Việt Nam :“Gởi một người đọc không quen, cùng cháy một thứ lửa thiêng như tôi, cùng được nuôi bằng một thứ nước điên nào đó chảy trôi như tôi, cùng sống như tôi đang sống : Cháy và chảy, cháy và chảy không ngừng…”

 

    3- Phạm Công Thiện sở hữu “ba ngàn quyển sách trong bụng”(**)nên ông tha hồ vung bút làm văn.Ông quan niệm : “Viết văn là diễn tả những ǵ thành thật nhứt trong ư nghĩ của ḿnh,bằng tất cả những xúc cảm và tưởng tượng,để nói lên những ǵ đè nặng trong tâm tư,bằng một ngôn ngữ khúc triết mạch lạc để sống trong sự có mặt của ḿnh và kẻ khác” – ông cho:“viết văn là đi đái,viết tuôn trào như nước đái,nóng,sôi,reo lên xè xè như tiếng ve băi trường” – (Dù đến đâu th́ cứ đến – BĐNCMP tr 42,43).

   Phong cách trí tuệ uyên bác,cầu kỳ khúc mắc đă khiến văn chương của Phạm Công Thiện trở nên “độc &lạ”,ngược với phong cách b́nh dị truyền thống - Học giả Nguyễn Hiến Lê đă chỉ ra :“Văn b́nh dị khó nhất ở điểm có ư cao,t́nh đẹp,nếu không th́ hóa ra nhạt nhẽo,vô vị”.Ông(NHL)dẫn Lâm Ngữ Đường trong cuốn “The importance of living” :“Sự b́nh dị là điều khó đạt được nhất trong văn chương.Muốn được b́nh dị th́ trước hết phải tiêu hóa nổi tư tưởng và óc cũng phải già giặn: khi chúng ta về già tư tưởng của chúng ta sáng sủa hơn;ta bỏ ra một bên những phương diện không quan trọng mà có lẽ sai lầm của vấn đề đó nữa; ư tưởng ta thành h́nh một cách rơ ràng hơn và những chuỗi tư tưởng lần lần hiện lên thành những lời văn gọn gàng,giản dị .Ta không thấy phải gắng sức nữa mà sự thực hóa ra sáng sủa và do đó hóa ra b́nh dị …”(***)

    Văn Học Nghệ Thuật dẫu sao vẫn là sản phẩm văn hóa của Con Người với vô vàn mối quan hệ xă hội bấu chặt,vây quanh. Con Người – với tư cách đối tượng phản ánh,là điểm xuất phát đồng thời là đích đến của tất cả các loại h́nh sáng tác.Con người thuộc hàng sinh vật thượng đẳng – bao gồm hai phần “con + người” - bóc tách cực đoan một mặt nào đó sẽ phá vỡ tính tổng thể hoàn chỉnh của nó,văn nghệ sẽ trở nên xa lạ và sẽ chẳng là ǵ cả.

   Đọc Phạm Công Thiện phải nói rất mệt,người đọc dễ mất kiên nhẫn bỏ lửng – chẳng biết ḿnh thuộc loại nào sau đây dưới mắt ông : “Bậc thượng học lấy thần mà nghe,bậc trung học lấy tâm mà nghe,bậc hạ học lấy tai mà nghe.Tai nghe th́ học ở ngoài b́ phu,tâm nghe th́ học ở cơ nhục,thần nghe th́ học ở cốt tủy”. (Theo Vân Đài Loại Ngữ - Lê Quí Đôn).

 

    Nguyễn Mạnh Trinh nhận xét : “Phạm Công Thiện là một thi sĩ nghệ sĩ.Không phải là cung cách một phù thủy chữ nghĩa hoa tay vào bùa chú vào hư vô để thành một văn phong khúc mắc khó hiểu.Mà,là một người ôm tất cả những rộng khắp vào ḷng và đi ṿng quanh để t́m chân lư.Cái tâm thức vốn tịch lặng của một người thâm cứu Phật giáo pha trộn vào ư thức muốn nổi loạn phá bỏ cung cách cũ khiến văn chương trở thành một hành tŕnh của một người luôn xông tới đằng trước và không dừng lại. Trong đời sống,phong cách du tử,làm những điều ḿnh thích khiến ông thành một người luôn thấy đêm ngày là hoang vu …”(****)

    Phạm Công Thiện – nhân vật kỳ tài xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh - c̣n đó một góc trời !

                                                                                     PHAN VĂN THẠNH

                                                                                                        (Saigon,26/3/2014)

-(*) “Phạm Công Thiện Một Thi Sĩ Kỳ Tuyệt Thiên Tài” - nguồn phusaonline.free.fr

-(**) “Trong bụng không có được ba vạn quyển sách,trong mắt không có được núi sông kỳ lạ của thiên hạ th́ chưa chắc đă làm được văn” (Ngô Lai -“Kiến Văn Tiểu Lục” – Lê Quí Đôn).

-(***) “Hồi kư Nguyễn Hiến Lê”- NXB Văn Học 1993,tr 397

-(****) “Phạm Công Thiện – Khi Thi Ca thành Tôn Giáo” – Nguyễn Mạnh Trinh - nguồn thuvienhoasen.org.