Phạm Thế Mỹ,
nhạc vẫn ngấm trong ḷng quê hương
Có những cuộc chạm mặt bất ngờ, chớp nhoáng rồi chấm dứt, nhưng nhiều năm sau chợt trở nên thân t́nh khi gặp lại. Tôi đă được một cơ hội như vậy. Khoảng năm 1955, gia đ́nh cha mẹ tôi thuê nhà cư ngụ bên dốc Cầu Vồng Đà Nẵng. Hồi đó tuy đă được 11 tuổi, nhưng tôi vẫn c̣n là một cậu bé khờ khạo và rất quê mùa. Ngày nào cũng áo cụt tay, quần đùi, đi chân đất. Tóc thuộc loại rễ tre, lại hớt ngắn nên thường dựng đứng lởm chởm như lông nhím. Không tháng nào không giải quyết bớt cái nạn tóc nhiều. Mỗi lần như thế, tôi chỉ được quyền gọi vào sân một ông thợ hớt tóc dạo, vừa đúng lúc đi ngang. Một cái ghế đẩu đặt trong bóng mát nghiêng nghiêng từ mái nhà trải ra. Tôi ngồi tḥng chân trên ghế, mặt cúi nh́n tấm vải trắng đă ố vàng hoặc vẩn vơ nh́n những cọng rác vô tư trên nền sân đất. Tiếng tông đơ kêu xành xạch từ ót lên, nhột nhột ṿng quanh hai mang tai...Chỉ năm, bảy phút là xong. Chuyện trả tiền, chuyện quét dọn sau đó có má tôi lo. Nhưng có một hôm, ba tôi cho tiền và chỉ cho tôi đến một tiệm hớt tóc gần nhà. Tôi không lạ ǵ tiệm hớt tóc này, v́ đă từng đi ngang, ghé mắt nhiều lần. Tiệm nằm trên đường Khải Định, gần ngă tư Thống Nhất, cũng được kể là một loại ngon lành thời bấy giờ. Được đi hớt tóc tại tiệm c̣n ǵ sung sướng hơn. Tôi hí hửng chạy một mạch chừng ba trăm thước th́ tới nơi. Chẳng phải do cơ thể hoạt động tích cực v́ chạy. Nhưng không hiểu tại sao tôi vô cùng hồi hộp khi dừng chân trước cửa tiệm. Mấy cái ghế nằm ṿng quanh, mấy tấm gương soi đồng dạng như có ma lực làm tôi chợt khớp. Phải định thần đến mấy phút, tôi mới rón rén bước vào.
- Hớt tóc hả cậu em?
- Dạ!
- Ngồi đó chờ một chút.
Vừa nói, anh thợ vừa lơi tay đè đầu một ông khách, chỉ cho tôi cái ghế dài kê sát vách. Tôi ngoan ngoăn đến ngồi, mắt không ngừng quan sát. Lúc này tôi mới đếm thầm, quán có năm ghế bành để hành nghề. Những chiếc ghế không mới, hơi thô kệch, nhưng trông chúng thật bề thế, hơn hẳn những cái ghế dựa bằng gỗ ở các mái che hớt tóc b́nh dân bên lề đường. Trên tường, cạnh năm tấm gương soi đều có treo năm cái chai thủy tinh. Trong mỗi chai là những nhánh cây trường sinh vươn dài mềm mại, xanh tươi như được dán dính vào vách. Cùng với cây lá hồn nhiên c̣n có những tấm ảnh chân dung thiếu nữ nhiều màu sắc. Ngay chỗ ghế tôi ngồi chờ cũng có một tấm trên vách. Tranh vẽ một cô gái mặc áo bà ba màu tím hoa cà, cầm chiếc nón bài thơ, mắt mơ màng nh́n ra một ḍng sông, ẩn hiện xa xa.
Trời đang nghiêng về buổi xế chiều. Ánh nắng hè bên ngoài có phần dịu bớt mùi hăng hắc. Tuy không ngớt quan sát trong quán, ngoài đường, nhưng tôi cũng ŕnh chừng từng người khách sẽ đứng dậy. Trong lúc đang toan tính cái tư thế sắp phải ngồi lên ghế hớt tóc, tôi nghe tiếng xe gắn máy tắt trước cửa tiệm, rồi thấy một người thanh niên ăn vận thật lịch sự.
- Ủa, anh Mỹ, đi Sài G̣n về khi nào ? Về chơi rồi vào lại chớ?
Người thanh niên vừa cười vừa bước vào:
- Ừ, sẽ vào lại. Ḿnh đang theo học nhạc trong đó. Trời nóng quá. Đến phiên ḿnh liền được chưa ?
- Được chứ anh. Xong ngay đây, anh chờ cho một chút.
Người thanh niên tiến gần về phía tôi. Tự nhiên tôi ngồi nhích về một bên. Nhưng ông ấy không ngồi. Ông cũng không nh́n tôi mà ngắm bức tranh, trầm trồ:
- Tranh Lê Trung mượt thật.
Người khách ngồi gần chỗ tôi chờ đă đứng dậy. Tôi chuẩn bị tinh thần để bước tới. Nghĩ thầm trong đầu, cái ghế h́nh như hơi thấp, không biết có nh́n rơ mặt ḿnh trong gương ? Nhưng người ngồi tiếp trên chiếc ghế vừa trống ấy không phải là tôi mà là người thanh niên mới vào sau. Tôi hơi ngỡ ngàng một chút nhưng đành lặng lẽ nh́n cả thợ lẫn khách đều thản nhiên, quên hẳn tôi cũng là một khách hàng. Tấm vải trắng đă được choàng kín phần trước thân người thanh niên Tôi chợt muốn bỏ về cho bơ ghét. Nhưng không hiểu sao tôi lại ngồi yên, vểnh tai:
- Nghe anh em nói lúc này anh viết nhạc phải không ?
- Ờ, học Quốc gia Âm nhạc nên cũng tập viết lai rai.
- Anh có định cho ca sĩ hát hay in ra bán không ?
- Chuyện in bán chắc c̣n lâu. Được ca sĩ chọn hát cũng không phải dễ. Nhưng tương lai chắc sẽ cố gắng.
Lời đối thoại giữa chủ khách c̣n kéo dài, đại khái đủ cho tôi hiểu lơ mơ ông thanh niên này là người làm ra bài hát. Thời bấy giờ tôi chưa biết dùng hai chữ nhạc sĩ. Bên ngoài h́nh như gió ngưng thổi. Cái nóng chợt gia tăng đôi phần. Tôi thấy một người đàn bà từ pḥng sau đi ra. Bà đến nắm sợi dây tḥng từ trần nhà xuống, nhẹ nhàng kéo. Tấm vải treo ngang trên đầu mấy cái ghế ngồi lật qua, lật về. Th́ ra đây là một cái quạt trần. Tuy lạ mắt nhưng tôi chỉ nh́n thoáng qua. Tôi vẫn c̣n đang hậm hực trong bụng.
Một khoảng thời gian sau, không c̣n nhớ bao lâu, khi đến chơi nhà anh Kiều Kiểm, anh rể tôi, cái radio Philips như một cái thùng gỗ của anh, cuốn hút tôi bằng tiếng hát tươi vui:
Đây
xóm nghèo quê tôi khi nắng lên
hương lúa ngọt t́nh quê thêm tŕu mến
đôi bướm vàng nhởn nhơ khi quyến
luyến và
cô gái làng ngẩn ngơ một t́nh duyên
bên luống cày đời vui đang nở hoa
ôi ảo mộng đời tươi sao đẹp
quá
chân bước về t́m vui đan mái lá và
nghe tiếng ḥ hát đưa duyên mặn mà
em bé thơ ơi, trên ḿnh trâu nắng em ước mong
điều ǵ
cô hái dâu ơi, bên ḍng sông vắng cô có buồn
người đi
trên đường về quê hương,
nghe dạt dào t́nh thương
cánh chim giang hồ vẫn trôi giữa đời
bước chân lăng du ơi chỉ mộng thôi
đây bóng dừa xanh xanh tôi mến thương
chim trắng về em vui reo ngàn hướng
ḱa cổng làng hàng cau nghiêng nắng xuống
đàn em bé đùa hát ca quên sầu thương
no ấm về t́nh ta thêm thắm tươi
bông lúa vàng nhờ tay anh cày xới
đây nắng đẹp miền quê thêm sáng chói
bừng lên xóm nghèo ấm êm bao cuộc đời
nắng sớm lên soi tươi sáng chân trời chào
niềm vui mới
xóm nghèo ơi
(Nắng Lên Xóm Nghèo, Phạm
Thế Mỹ)
Tôi im lặng nghe ḍng ca từ nhẹ nhàng, giàu những h́nh ảnh tràn chảy theo giọng hát nồng nàn, trong veo. Tuy chưa hiểu ǵ về nghệ thuật, nhưng tôi cũng cảm biết đôi chút nét đẹp của lời ca tiếng nhạc. Âm thanh quả có sức quyến rũ kỳ diệu. Nó chợt trải ra trong ḷng tôi những nhớ nhung lạ lùng. “...Đôi bướm vàng nhởn nhơ...hàng cau nghiêng nắng xuống...” sao mà thân quen, tha thiết vô cùng.
Mặc dù đă có ấn tượng tốt về ca khúc Nắng Lên Xóm Nghèo, với tên người sáng tác Phạm Thế Mỹ, nhưng tôi vẫn chưa biết, người dành phần ngồi vào ghế hớt tóc trước ḿnh trước đây, chính là tác giả. Một thời gian sau nữa, lúc được chúng bạn trầm trồ về ông thầy dạy nhạc ở các trường Tây Hồ, Phan Thanh Giản, tôi mới nhớ và nhận ra.
Phạm Thế Mỹ, sinh năm 1930 tại đất Đập Đá, An Nhơn, B́nh Định, lưu lạc theo kháng chiến một thời gian, rồi tấp về Đà Nẵng sinh sống. Tôi khởi sự làm thơ trong im lặng, không mấy tin tài sức của ḿnh. Nhưng cái duyên đến với thi ca mỗi ngày một ngọt ngào, giúp tôi có thêm ít nhiều bè bạn hữu danh. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ lúc bấy giờ chưa bước vào thế giới bằng hữu của tôi.
H́nh như vào năm 1963, có vụ xử bắn một gian thương hay trọng tội ǵ đó tại sân vận động Chi Lăng, gần nhà tôi. Ṭ ṃ, tôi có dừng trước cổng chính ḍm vào, rồi bỏ đi trước tiếng súng nổ. Những h́nh ảnh không mấy rơ ràng đó giúp cho tôi có thêm một bài ngũ ngôn, với ít nhiều tưởng tượng, sau khi đẩy nạn nhân vào tội danh có màu sắc chính trị:
Chắc trời c̣n xanh lắm
/cho tôi qú xuống đây/ tiếng ru nào trót dậy/ chắc buồn mà không hay/ tôi tay
đầy ṿng buộc/ thân che ḷng cát này/ quê hương sầu tôi
đấy /mắt nào nh́n lại đây?/ hỡi
người anh phía trước/ hỡi người
bạn sau lưng/ hỡi
từng viên đạn nhỏ/ cho tôi ly rượu
mừng/ mùa xuân nào lại
tới/ lời ca nào lại bay/
giấc mơ nào của mẹ/ tiếng lệ nào
của em/ cho tôi xin mở
mắt/ nh́n tay người đang run/ chiến công nào cao
lớn/ hơn mạng
người đau thương ?/ lạy trời tôi
đừng biết/ tôi là
người như anh/ lạy trời tôi đừng
biết/ tôi chết v́ tay anh.
(Lời
Nguyện Pháp Trường – Lê Hân kẻ nhạc, chép lời,
in như một phụ bản trong thi phẩm Chết Trong
Ḷng Người trang 31, 32. Lối in phụ bản bằng
nhạc, có lẽ đây là lần đầu tiên của những
sáng tác thơ văn đă in)
Bài thơ được tạp chí Văn Học “đi”. Anh Phạm Thế Mỹ đă đọc được và phổ nhạc. Đây là món quà ngoài mong đợi của tôi, khi được quen biết với anh. Trong khi phổ nhạc, Phạm Thế Mỹ tôn trọng tuyệt đối lời thơ, không thay đổi bất cứ chữ nào, và cũng không bỏ bớt câu nào. Ca khúc này về sau được cô sinh viên Vạn Hạnh, mang tên Đăng Lan phổ biến trong khuôn viên trường Đại học Phật giáo tại Sài G̣n. Phạm Thế Mỹ rất vừa ḷng với giọng ca Đăng Lan. Nhưng khi cho thu vào dĩa nhựa và cassette của nhà sản xuất băng nhạc Việt Nam (101 Vơ Di Nguy Sài G̣n), anh đă chọn giọng của nam ca sĩ Miên Đức Thắng, có lẽ để cho hoàn toàn thích hợp với nội dung. Miên Đức Thắng cũng là một môn đệ của Mỹ. Thắng về sau cũng có viết nhạc. Tôi gặp Thắng một lần tại Montréal. Anh bạn có giọng hát rất trầm ấm này khá lăng mạn, nếu có thêm chút đào hoa, có lẽ anh đă phải lụy v́ t́nh ở xứ sở mới của tôi. C̣n cô Đăng Lan khi rời Đại học, đă trở thành ca sĩ, và hiện nay, h́nh như định cư tại Úc. Ngày ấy, Phạm Thế Mỹ có mang về Đà Nẵng cho tôi nghe giọng hát Đăng Lan, trong một cuốn băng thu thử và không tiếc ca ngợi, rất tiếc tôi chưa có diễm phúc gặp mặt. Quả đất vẫn tṛn, nhưng tuổi đời sắp cạn, có lẽ tôi phải chờ một hóa kiếp bay bướm hơn, mới có cơ hội nh́n được Đăng Lan, để nghe cô ấy hát lại Lời Nguyện Pháp Trường.
Phạm Thế Mỹ, khi tôi quen, sống cùng gia đ́nh trong căn nhà thuê của bà kim hoàn Tâm, thân mẫu của Hoàng Thị Hồng, trên đường Pasteur. Một đôi lần tôi ghé đến chơi, với mục đích nghe anh kể về mấy cô học tṛ học piano của anh. Với anh, cô nào cũng ngoan, cũng đẹp. Quả đúng vậy, như Minh Xuân đường Độc Lập chẳng hạn. Tuy khen học tṛ ḿnh đẹp, nhưng Phạm Thế Mỹ là một ông thầy rất mực đứng đắn và yêu nghề. Thành phố Đà Nẵng khá rộng, nhưng thị dân như cùng nằm trong một bàn tay. Tiếng lành tiếng dữ một sớm một chiều, người người đều biết. Mấy ông rao giảng cái nghề dễ tạo cơ hội bướm hoa là âm nhạc như Phạm Thế Mỹ, Hoàng Bích Sơn đều nhận được sự tôn trọng tuyệt đối của học sinh. Giữ cho ḷng được thanh thản và không vơi đi những lăng mạn cần thiết cho việc sáng tác, quả rất bản lănh. Phạm Thế Mỹ thực hiện được điều này trong suốt thời kỳ anh đứng trên những bực giảng của các trường trung học tại Đà Nẵng.
Vào một buổi sáng năm 1964, tôi cùng Hoàng trọng Bân từ Cổ viện Chàm thả bộ dọc theo bờ sông. Trời đẹp. Nhưng con đường Bạch Đằng chỉ thật sự quyến rũ từ đoạn Ty Bưu điện chạy xuống Trẹm. Khi vừa đến sân quần vợt, chúng tôi gặp đám người biểu t́nh chống hiến chương Vũng Tàu, từ phía Thanh Bồ kéo về Ṭa thị Chính. Ḷng đường, vỉa hè, bờ sông, người theo người. Không đông lắm, nhưng tưng bừng, huyên náo. Tôi và Bân rất bất ngờ, nhưng cũng ṭ ṃ theo đoàn người đến đứng trước cơ quan hành chánh của thành phố. Tiếng đả đảo mỗi lúc một lớn dần. Có lẽ khiếp sợ những âm thanh, ngôn ngữ này nên Bân nói nhỏ với tôi, anh cần về nhà có công chuyện. Tôi không lạ tính nhát gan của Bân nên lặng lẽ bắt tay anh. C̣n lại một ḿnh, tôi lớ ngớ chưa thật sự nhập vào đám đông, nếu không chợt gặp Hà Xuân Kỳ. Kỳ không phải là bạn tôi. Anh là một người hàng xóm thời tôi c̣n ở khu Thuận Thành. Anh là một học sinh giỏi của trường bán công, học trên tôi nhiều năm, làm thơ rất hay. Thời ở Thuận Thành anh thuê nhà chung với anh Ngọc, không rơ họ ǵ, người Lăng Cô. Tôi thường qua chơi với cả hai. Dù mỗi lần diện kiến tôi chỉ làm người dựa cột.
Gặp Kỳ. Anh kéo tôi ào vào Ṭa Thị chính. Những viên công chức đă tan sở từ bao giờ. Đêm hôm đó, chúng tôi chiếm giữ cơ quan lớn nhất thành phố này bất hợp pháp. Đội ngũ cầm đầu cuộc xuống đường mỗi lúc một đông. Tôi gặp cả anh chàng Trăng Tàn Trên Hè Phố rất năng nổ. Về khuya, mặc cho mấy anh ‘mưu đại sự’ suy suy tính tính với nhau, tôi ṃ lên tầng cao hơn. Một cái giường rộng lớn tối đa, với ra nệm tươm tất mời gọi tôi. Tôi để nguyên giày, phóng lên nằm. Lim dim đâu được một lát, giật ḿnh sợ mấy anh bên dưới sè sẹ rút lui. Tôi lừ đừ trở xuống. Gió sông Hàn mát rượi. Nếu được ngủ vài đêm thanh thản trong căn nhà này thích biết mấy.
Sáng hôm sau chúng tôi được tiếp chuyện với tướng Tôn Thất Xứng, Tư lệnh Vùng I. Tướng Xứng, người nhỏ con, không có cái oai của một vơ quan. Ông lịch sự, nhă nhặn như một ông thầy giáo (hiện nay Tướng Xứng ở Montréal). Mấy đứa chúng tôi đứng sát sau lưng ông, khi ông phát biểu đôi điều trước quần chúng, từ cái lan can của Ṭa Thị chính. Chẳng có một thỏa thuận nào, nhưng chúng tôi quyết định rời Ṭa Thị chính, chuyển “bản doanh chỉ huy” lên rạp hát Trưng Vương. Tôi là một trong những người đi tiên phong đến địa điểm này. Khi sắp đến nơi, tôi chứng kiến một đám đông vây đánh hội đồng một người nào đó ngay trước cửa hiệu ảnh Lê Hậu. Cuộc xuống đường đă trở thành cuộc bạo động đẫm máu. Tôi lặng lẽ rút lui. Tuy vậy tôi vẫn theo dơi diễn tiến hoạt động của các bạn tôi đang tiếp tục dấn thân vào. Một Hà Nguyên Thạch hừng hực với tờ lá cải Đứng Đầu Gió, một Phạm Thế Mỹ kín đáo nhưng tích cực. Anh cho người đến nhờ tôi đi thuê thợ khắc con dấu cho “ủy ban” tranh đấu. Không thể từ chối, tôi hoàn tất cho anh công việc này. Nhưng khi đến giao, anh chán nản lắc đầu:
- Hoán đem về hủy nó giùm đi. Ḿnh nản quá rồi.
Tôi mang con dấu chưa đóng thử lần nào bỏ xuống máng xối nhà Lư, rồi đạp xe qua nhà Châu Văn Tùng rủ đi uống cà phê, nhẹ nhàng kết thúc một vụ tham gia “tranh đấu tài tử”. Ngày nay nghĩ lại, tôi nghiệm ra, những cuộc xuống đường tại Đà Nẵng thường xảy ra sau Huế và nhiều nơi khác. Nhưng đă có màn tranh đấu là gần như có bạo động, có chảy máu. Và tôi không thiếu thơ thời sự cho những vụ này. Rất may theo năm tháng, những “trời dở mưa dở nắng / thở hơi khói cay và mùi người chết...”được tôi hủy bỏ không chọn in.
Năm 1969, tôi thủ diễn xuất sắc vai người thương binh của nhạc sĩ Phạm Duy. Mẹ đă mất, nhà không có ao vườn, nên người cha già của tôi không cần phải lần ṃ. Ông đứng yên lặng trước ngưỡng cửa, đôi mắt ánh lên những nét cười ngậm ngùi.
- Thôi vậy được rồi, yên tâm rồi...
Câu nói của ba tôi không là thơ. Nhưng đối với tôi là một nguồn thi ca vô giá. Cùng với nguồn thi ca này, tôi c̣n có những đôi vai, và nhiều bàn tay của bè bạn khắp nơi. Những thăm hỏi, gởi gấm quí giá của các anh Trần Phong Giao, Phan Kim Thịnh, Xuân Hiến... cùng một nén hương đốt lên bởi nhiều người đă đỡ tôi đứng dậy. Trong nén hương này, Phạm Thế Mỹ, người bạn lớn hơn tôi 11 tuổi, thắp những lời chân t́nh bằng âm nhạc:
“Châu ơi / sao mày không chết /
sao mày không chết/ mà lại mất một chân / mà lại
mất một chân / Châu / tao nghe nói / mày ước mơ /
ngày ḥa b́nh / mày chạy bộ từ Nam ra thăm xứ Bắc
/ theo con đường sắt quê hương / nhưng bây
giờ / chân mày đâu / chân mày đâu / hỡi Châu ? / ôi tao
không ngờ / tao con đủ nước mắt để
khóc mày đêm nay.../rồi mai đây / và mai sau / mày sẽ nói
ǵ / với con mày / khi nó
hỏi / sao bố đi chân gỗ ? / bàn chân bố đâu
?/ chẳng lẽ mày im / chẳng lẽ mày nói / Châu Châu
ơi / tao xin mày / đừng khóc đừng khóc nghe Châu ! /
Châu / ngày ḥa b́nh ngày ḥa b́nh / sắp đến / và
đứa con đứa con mày / sắp ra đời.../
nhưng thôi...tao nghĩ.../ mày vẫn c̣n may / vẫn c̣n
đủ hai tay / vẫn c̣n cả trái tim / thôi nghe Châu /
đêm nay / tao chúc mày / ngủ thật say / ngủ thật
say...”
(Bàn Chân Nối Liền Nam Bắc
nhạc và lời của Phạm Thế Mỹ)
Có lẽ chẳng cần vẽ lại cái giây phút chúng tôi ngồi bên nhau. Mỹ vịn vào tiếng guitar để cất giọng. Nhưng chẳng phải một hai lần anh hát được trọn vẹn sáng tác của anh... Tôi xin bỏ qua. Bỏ qua. Một thời gian ngắn sau, chúng tôi thực hiện đúng tinh thần mấy câu thơ của Lê Vĩnh Thọ:... “mất một chân có phải là điều bi đát / và cuộc đời đă đáng bi quan / gặp nhau vẫn bàn chuyện phải làm / vẫn bàn chuyện phải đến...” Và chúng tôi mỗi người chú tâm hoàn tất phần việc của ḿnh. Bản thảo Ḥa B́nh Ơi Hăy Đến đă sẵn sàng tŕnh làng. Phạm Thế Mỹ lúc bấy giờ đă có một số giờ dạy tại Viện Đại học Vạn Hạnh. Anh chuẩn bị dời cả gia đ́nh vào Sài G̣n để thuận tiện mọi sinh hoạt của anh.
Tập Ḥa B́nh Ơi Hăy Đến với b́a thật tuyệt hảo của họa sĩ Nghiêu Đề, cùng hai phụ bản độc đáo của Đinh Cường, Nghiêu Đề là một công tŕnh ưng ư của chúng tôi. Tuyển tập được chia làm ba phần: thơ Luân Hoán, nhạc Phạm Thế Mỹ, thơ Lê Vĩnh Thọ. Phần nhạc của Phạm Thế Mỷ gồm các ca khúc: Tiếng Hát Loài Chim Chiến Tranh (tặng Đinh Cường), Lời Nguyện Pháp Trường (thơ Luân Hoán, in lại từ CTLN), Tôi Phải Nói Với Anh Điều Này, Thầy Phù Thủy Giết Người, Nước Sông Nào Chẳng Mát Chẳng Ngon, Hỡi Hồn Mẹ Việt Nam, Rao Bán, Sài G̣n Vui Không Em, Giấc Mơ Của Mẹ (tặng má và anh Phạm Hổ), Cây Súng Ngủ Quên, Sớm Mai Hồng (cho Loan và Huệ), Hát Cho Quê Hương, Người Về Thành Phố, Ḥa B́nh Ơi Hăy Đến.
Nội dung phần thơ nhạc của ba chúng tôi nặng nề tính cách phản chiến. Viết về Phạm Thế Mỹ, nên tôi xin trích một bài tiêu biểu ḍng nhạc này của anh:
“Năm chục đồng ai mua
tôi bán / năm triệu đồng ai mua tôi bán / năm
triệu đồng một triệu thanh niên / năm
chục đồng một thằng sinh viên / đôi chân c̣n
lành / đôi tay c̣n mạnh / ai mua tôi bán ai mua tôi bán / năm
triệu đồng một vạn sinh viên / trăm
triệu đồng triệu triệu thanh niên / tôi đang
cần tiền / tôi đang cần rượu / ai mua tôi bán
ai mua tôi bán / bán cả ruộng vườn / bán cả t́nh
thương / bán cả bạn bè / bán cả vợ hiền
/ thêm một triệu đồng / bán cả luôn tôi / ai mua
tôi bán ai mua tôi bán / thêm một triệu đồng bán
cả luôn tôi / thêm một triệu đồng bán cả
luôn tôi / tôi đang cần con dân yêu nước / ai dư
dùng tôi đây mua hết / năm vạn đồng một
thằng ma cô / năm triệu đồng một cụ
quan to / ăn lương thật nhiều / lên lon
đều đều / ai dư xin bán tôi đây mua hết /
tôi đang cần nhiều bàn tay hôi / tôi đang cần
nhiều thằng ăn chơi / thơm như bọ
vườn / lang thang đầy đường / tôi xin mua
hết / tôi xin mua hết/ đây một triệu
đồng/ mua một thầy tu/ đây một triệu
đồng / xây một nhà tù / thêm một triệu
đồng / nhớ đừng quên tôi/ ai dư xin bán tôi đây
mua hết / ai dư xin bán tôi đây mua hết / thêm một
triệu đồng nhớ đừng quên tôi / thêm một
triệu đồng nhớ đừng quên tôi” (trở lại đoạn đầu
để hết).
Trước khi chống nạng xuống gặp anh Nguyễn Rô, giám đốc Ủy ban Kiểm duyệt Vùng 1 Chiến thuật, tôi đă dự đoán tập thơ có nhiều bài khó qua ải, nên đă có chút đỉnh “ma giáo” để qua mặt anh. Thành thật gởi lời xin lỗi muộn đến nhà thơ Thuận Xuyên (bút hiệu của anh Rô), hiện cư ngụ tại Dallas Hoa kỳ. Sau khi được cấp phép in ngày 22 tháng 4 năm 1969 với số kiểm duyệt 41BUBKDVICT, Phạm Thế Mỹ mang bản thảo vào Sài G̣n và in xong ngày 14 tháng 5 năm 1969.
Công việc in sách thật ra chẳng dễ dàng với ba chúng tôi. Tôi đă nảy ra một sáng kiến, để có tiền in, chúng tôi cho in một số biên lai bán sách. Việc in biên lai giao cho Lê Vĩnh Thọ thực hiện, với phương tiện của tiểu đoàn 10 Chiến tranh Chính trị, hiện Thọ đang có thẩm quyền. Biên lai in xong, Phạm Thế Mỹ mang vào các trường bán trước cho học sinh của anh. Con số các em học sinh có ḷng lên đến 600 người, nên chúng tôi cho in đến 600 cuốn trên giấy tốt. Dù sách in đă xong nhưng nhận ra và gởi về Đà Nẵng c̣n gặp sự trục trặc, Phạm Thế Mỹ phải nhờ đến uy tín của vị Viện trưởng để giải quyết.
Một cuộc chơi khá gian nan đă qua. Với số vốn là những tâm tư chân t́nh, chúng tôi lời được những nghi kỵ, ngờ vực. Có một số ít người lâu nay, vẫn cho Phạm Thế Mỹ là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Thật ra anh chỉ là một Phật tử, yêu đạo, yêu đời và yêu nước. Nhiệt t́nh của anh khá mạnh trong những sinh hoạt tập thể đâm gây ra những đố kỵ. Thêm vào đó, một đôi lần trong các cuộc chuyện tṛ, anh có bày tỏ ít nhiều trọng vọng với miền đất ngàn năm văn vật, mà người anh trai của anh, nhà thơ Phạm Hổ, đang phục vụ, nên dễ gây ngộ nhận. Đừng nói ǵ Mỹ, thương phế binh chính hiệu như tôi, trong thời đó, cũng bị ông nhà giáo, TDN, tặng cho hai chữ Vi Xi, khi tôi tiếp chuyện nhà thơ Ngô Kha từ Huế vào thăm. Buổi sinh hoạt ra mắt tập Lục Bát Ca của tôi, Lê Vĩnh Thọ và Vĩnh Điện đă tưởng bất thành nếu bạn Tống Nhạn, không đứng ra mượn hộ hội trường trường Phan Châu Trinh, nơi tôi xuất thân. Tống Nhạn là sĩ quan, gốc nhà giáo, con ông Tống Quyền, một viên chức rất có uy tín tại Hội An. Nhạn cùng tôi, Hà Nguyên Thạch, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thiếu Dũng...có mặt trong tạp chí Nhận Thức ở Huế một thời. Chính Nhạn cũng giải độc hai chữ VC hộ tôi bằng cách mời Đại tá Nguyễn Văn Thiện, Thị trưởng Đà Nẵng, ghé nhà tôi chơi, có xe quân cảnh hộ tống và gác đường đàng hoàng. T́nh bè bạn không ăn nhập ǵ với lư tưởng của bạn bè. Chúng tôi không hại lẫn nhau khi đă là bạn, nhất là bạn sinh hoạt văn học nghệ thuật. Tội nghiệp, sau 1975 Tống Nhạn tinh thần bất ổn và đă qua đời. Dĩ nhiên, Phạm Thế Mỹ cũng có quen biết Nhạn.
Giữa năm 1969, Phạm Thế Mỹ đă chuyển hết gia đ́nh vào Sài G̣n. Giai đoạn này tôi thật sự không nắm rơ những sinh hoạt của anh. Nghe nói anh dạy nhạc và giữ chức Trưởng pḥng Văn mỹ nghệ Viện Đại học Vạn Hạnh. Gần đây, trên trang điện toán Một Thời Áo Trắng, tôi đọc được một số viết về anh, từ những cựu học sinh Mạc Đỉnh Chi Sài G̣n. Xin được hân hoan trưng ra những t́nh cảm chân tính này:
“Thấm thoát đă hơn ba mươi năm kể từ ngày người viết bài này được ngồi nghe tim ḿnh đập nhanh theo từng tiếng hát uất nghẹn của thầy Phạm Thế Mỹ khi thầy dồn hết tâm tư diễn đạt một cách xuất thần nhạc phẩm "Huế Của Ta" mà thầy vừa sáng tác...
.... C̣n nhớ Thầy
ngồi trên chiếc bàn học tṛ ấy, dồn hết tâm
t́nh, mắt rưng rưng, môi rung rung theo những lời
hát trong bài "Huế Của Ta", một bài hát như
được kết tụ bởi màu xám của óc, màu
trắng của xương, và màu đỏ của máu.
Giọng Thầy có lúc ch́m xuống, trầm hùng
"lửa Đông Ba lửa cháy Vân Lâu / lửa
cửa Tây ra tới cửa Đông / lửa nội thành lan
ra đường phố "
Rồi vút cao lên trong kinh
hoàng đớn đau cùng cực, " Huế
ơi!". Tiếng hát
khởi đi từ con tim uất nghẹn, uất
nghẹn trước những gẫy đổ, điêu tàn
nát vụn của chiến tranh... Và tiếng hát của
thầy tiếp tục cất lên qua mắt lệ long lanh
:
"Cầu Trường Tiền đau
thương gục xuống, hàng vạn người bơ
vơ không nhà, hàng vạn người bơ vơ
đường phố, Huế ơi...!"
Tiếng hát của Thầy
đă dứt nhưng Thầy vẫn ngồi đó, bất
động. Cả lớp cũng gần như chết
lặng. Mắt Thầy vẫn đăm đăm nh́n vào
một cơi mênh mông. Chừng như trước mặt
Thầy vẫn lảng vảng là những núi Ngự, ḍng
Hương, Đại Nội, Vân Lâu, Trường
Tiền, Thừa Phủ. Chừng như trong mắt
Thầy vẫn c̣n là những màu xám xịt của
đất đá vụn vỡ, màu đỏ quạch
của những băi máu khô, màu trắng của áo trắng
học tṛ . Và màu trắng trập trùng của ngàn giải
khăn sô.
...Người viết bài này tin rằng thầy
Phạm Thế Mỹ không chỉ là một nhạc sĩ
tài ba mà c̣n là một thi nhân với tấm ḷng nhân hậu mà
câu văn lời thơ là những nhịp đập thoi
thóp của một con tim luôn rung theo âm điệu của
t́nh yêu, quê hương và cuộc sống...
Khách
Ly Hương (Vinh danh thầy PTM,Virginia, 7-5-2001)
“Tuy không có cơ hội học
nhạc với thầy Phạm Thế Mỹ, cũng
như chưa có dịp tốt
như Khách Ly Hương, được nghe Thầy
hát trực tiếp trong lớp, nhưng Nguyên Dung đă
may mắn được làm
học tṛ của thầy qua
sinh hoạt văn nghệ dưới mái trường Mạc Đĩnh
Chi lúc học Đệ Ngũ ( 1966- 1967) và Đệ Tam (
1968-1969 ): Thầy đă điều khiển hai màn vũ
Trống Mê Linh và Bên Cầu
Tơ Liễu ( Kim Trọng, Thúy Kiều ) của
trường. Từ đấy, Nguyên Dung cảm thấy
ḿnh gần gũi với Thầy, với những sáng tác
nổi tiếng từ
trước đến nay như: Bông Hồng Cài Áo.Những
Ngày Xưa Thân Ái, Bóng Mát, Tóc Mây.... Mỗi lần
được nghe bạn bè văn nghệ tŕnh bày một
bản nhạc của Thầy, Nguyên Dung đều cảm thấy vui vui, hănh diện
như muốn nói với người bạn đó rằng:
“ Tác giả bản nhạc đó là Thầy dạy múa
của Dung đấy”!
Nguyên Dung - Paris, 11-2002
...“H́nh ảnh thầy Phạm Thế Mỹ trong trí nhớ tâm tưởng của những cựu học sinh Mạc Đĩnh Chi là một thầy giáo, một nhạc sĩ nổi tiếng với những bản nhạc đượm t́nh quê hươnng và t́nh người rất được nhiều người ưa thích...Phải nói học sinh Mạc Đĩnh Chi may mắn có được sự dạy dỗ của thầy. Đặc biệt thầy đă nối tiếp bước chân của thầy Nguyễn Văn A để đưa sinh hoạt văn nghệ Mạc Đĩnh Chi, với những trường ca của thầy, cho ban hợp xướng, cho ban vũ (trong thập niên 60) được nổi tiếng khắp thủ đô Sài G̣n trong giới học sinh trung học”...
Bùi Mạnh Hùng - đông bắc Hoa Kỳ 9-11-2003
“Cassette nhà
ai mở / Từ phía bên kia
đường / Bản nhạc đă nằm ḷng / Của
người thầy nhạc cũ / Tôi thầm gọi
Thầy ơi! / Bài giảng Thầy đây rồi /
Những ‘vạch nhịp cuộc đời” / Như fa thăng - mi giảm / Những Schubert, Mozart / Phát tiết ngàn
tinh hoa / Cho cây đời xanh lá / Giọng Thầy c̣n vang măi
/ Rối rắm, móc đơn đôi / Như ngơ ngách
cuộc đời / T́nh người nhiều hệ
lụy /Trăng sắp tàn hay
chưa? / Trên đường phố ngày xưa / Không
trăng xưa vẫn sáng / Trắng bàng bạc giữa
đời / Trong miết suốt hồn tôi / Giữa ngày
xuân nắng ấm!”
Vĩnh Tân, 1977
Những bày tỏ t́nh cảm như trên c̣n khá nhiều, nhưng tôi không thể trích dẫn hết, dù đây là những chi viện, tiếp sức rất quí. Trong khi chuẩn bị viết bài này, một tin rất vui, nhà văn Song Thao vừa cho biết, không thể không ghi lại vài ḍng:
Trang điện tử của đài VOVN.com, tại thành phố Houston, Hoa Kỳ, đă đưa tin: nhóm thân hữu và hoc tṛ cũ của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sẽ tổ chức một buổi nhạc vinh danh ông với chủ đề Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ, Những Ngày Xưa Thân Ái. Tuy chỉ thực hiện một nguồn tin, nhưng buổi phát thanh ngày 07 tháng 3 năm 2006 vừa qua tại đài VOVN, phải được xem là một sinh hoạt văn học khởi đầu của nhóm tổ chức chương tŕnh vinh danh sắp tới. Có nhạc mở đầu (bằng giọng ca Quang Lê thể hiện Trăng Tàn Trên Hè Phố), có nhạc kết thúc (với Áo Lụa Vàng qua tiếng hát Khánh Ly). Và dưới h́nh thức một cuộc bàn chuyện với ít nhiều tâm sự, những nhân vật trong ban tổ chức cho thính giả biết một cách tường tận mục đích và ư nghĩa của sinh hoạt.
Chị Phương Hoa, với tư cách người của đài, giàu thông minh, duyên dáng lẫn dí dỏm dẫn cuộc nói chuyện rất vén khéo. Anh Sơn Huy, một học tṛ cũ, đă từng mục kích thảm cảnh của thầy ḿnh trong những năm gần đây, vắn tắt vài ḍng về Phạm Thế Mỹ, trước khi bày tỏ mục đích việc anh chủ xướng thực hiện sinh hoạt. Các anh chị Trần Chí, Đoàn Hữu Đức, Bạch Hạc...cũng nói rơ thêm ư nghĩa của đêm văn hóa nghệ thuật sắp tới, đồng thời thông báo mọi người tham dự sẽ được vào cửa tự do. Có thức ăn nhẹ miễn phí, có quà lưu niệm quí giá, là một CD gồm toàn những ca khúc để đời của Phạm Thế Mỹ, sưu tập từ sản phẩm của những trung tâm phát hành âm nhạc cho phép. Những giọng ca trong đêm sinh hoạt cũng được giới thiệu, gồm Hoàng Tường, Vi Liên, Kim Loan, Bạch Hạc...Những người góp tấm ḷng qua các tờ chi phiếu đầu tiên cũng được xướng tên, tạ ơn.
Với chỉ một công việc thông báo đă rất đậm đà chất văn học như vậy, chắc chắn buổi Phạm Thế Mỹ, Những Ngày Xưa Thân Ái tại thành phố Houston sẽ rất thành công. Thành phố xinh xắn này khá đông người Việt, và quan trọng là đồng bào ḿnh ai cũng rất dễ thương, “vui chơi nhưng không quên trách nhiệm” theo nhận xét và chữ dùng của chị Phương Hoa. Tôi bùi ngùi vui mừng cho bạn tôi. Một điện thư ngay sau đó cho anh Sơn Huy, không để đóng góp tài chánh, mà để xin một số địện thoại, có lẽ tôi vô duyên, lố bịch quá rồi. Thư không được hồi âm, điều đương nhiên. Xin được xin lỗi và cảm ơn anh Sơn Huy (1) Chắn chắn tôi đă thiếu tế nhị khi thèm nghe một giọng nói, vốn hát rất hay, đang phải chỉnh sửa lại âm giọng, sau một cơn tai biến đường máu.
Trở lại một thời đă qua. Vào ngày 20 tháng 2 năm 1975, hai tháng trước khi Việt Nam Cộng Ḥa thân thương của chúng ta tan hàng, tạp chí Phổ Thông, một công tŕnh của cố thi sĩ Nguyễn Vỹ để lại, từ địa chỉ 816 đường Phan Thanh Giản Sài G̣n, đă phát hành 3000 ấn bản Phổ Thông số 30. Trong số này có in bản công bố kết quả cuộc thăm ḍ dư luận do tạp chí Phổ Thông thực hiện, nhân kỷ niệm Sinh nhật 20 của Phổ Thông -1955-1975.
Cuộc thăm ḍ bắt đầu từ năm 1974 qua 51 vị giáo sư, nam nữ công tư, 108 sinh viên của nhiều phân khoa, 20 nông dân,43 công tư chức, 33 kư giả, nghệ sĩ, nhà văn, 54 quân nhân các cấp, 47 thương gia và tiểu thương, 33 bà nội trợ cùng 115 công nhân lao động các giới. Năm trăm lẻ bốn người này ở đều khắp miền nam Việt Nam, đă chọn, tôn vinh 16 nhân vật, gọi là “Người của năm 1974”, không phân biệt phe nhóm, ngành hoạt động, gồm có: Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thượng tọa Thích Trí Quang, Linh mục Trần Hữu Thanh, Chính khách Nguyễn Văn Huyền, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Nhà báo Trần Tấn Quốc, Nhà báo Nam Đ́nh, Tiến sĩ Kinh tế Châu Kim Ngân (Tổng trưởng Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng Ḥa), Tướng Ngô Quang Trưởng, Họa sĩ Nguyễn Hải Chí (Chóe), Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, Nhà báo Vương Hữu Bột (cũng là nhà thơ Đỗ Quư Toàn), Giáo sư Lư Chánh Trung, Tiến sĩ Công pháp Nguyễn Huy Hân (Tổng Giám đốc Thuế vụ VNCH), Nhà thơ Luân Hoán, Nhà văn kiêm Luật sư Dương Kiền. Tất cả 16 người trên đều có chân dung in kèm. Trong phần giới thiệu Phạm Thế Mỹ, Phổ Thông viết:
“Phạm Thế Mỹ mở
rộng thêm đường đi của anh trong năm
1974, bằng Trái Tim Việt Nam, trái tim bốc lửa khát
vọng ḥa b́nh. Người và cảnh vật trên
đất nước ta chỉ tồn tại được,
vươn cao lên, và bao dung măi nhờ ngọn lửa ấm
ḥa b́nh.
Nhạc Phạm Thế
Mỹ phản ảnh tiếng th́ thầm, lời kêu
gọi chân t́nh những người Việt hăy tỉnh
dậy, sau cơn mê dài chiến tranh - cuộc tang tóc
của chúng ta nằm măi trong toan tính khôn khéo của
ngoại bang trục lợi ? Riêng Phạm Thế Mỹ,
anh trả lời bằng cách cất cao tiếng hát, ca
tụng t́nh người và t́nh quê hương Việt Nam
muôn đời.
Phạm Thế Mỹ sinh
năm 1932 (2) tại B́nh Định. Tham gia kháng chiến chống
Pháp thời kỳ 1945-1954. Học Quốc gia Âm nhạc
Sàig̣n: 1954-1959 . Dạy Việt Văn tại trường
Trung Học Bồ Đề, Đà Nẵng từ 1959 -
1970. Giữ chức Trưởng Pḥng Văn Mỹ Nghệ
Viện Đại Học Vạn Hạnh từ 1970 – 1975.
Những tác
phẩm đă xuất bản :
Nhạc bản
rời: Bản đầu tay : Nắng Lên Xóm Nghèo. Bản
mới nhất (cuối năm 1974): Nhớ Chứ Em Ơi
Tổ Quốc Ḿnh.
Tập Nhạc: Ḥa
B́nh Ơi, Hăy Đến (in chung thơ Lê Vĩnh Thọ,
Luân Hoán), Trái Tim Việt Nam (Đối Diện xuất
bản), Việt Nam Trong Ḷng Thế Giới (thơ Quốc
tế bản dịch Lê Vĩnh Thọ, Phạm Thế
Mỹ phổ nhạc)
Trường Ca :
Lửa Thiêng 1963, phổ biến hạn chế, Con
Đường Trước Mặt (Phật Tử Âu Châu
xb 1971), Trang Sử Mới (Sinh Viên Phật Tử Pháp xb), Thêm
Một Lần Hoa Nở (Viện ĐH Vạn Hạnh xb), Những
Ḍng Sông Anh Em (phổ biến hạn chế)
Nhạc Kịch : Sắc Lụa Trữ La, Tiếng Hát Dậy Từ Ḷng Đất, Miếu Âm Hồn”
(trang 13,
Phổ Thông 30)
Có lẽ sẽ hơi dư thừa nếu đưa thêm vài nét nhận định về nhạc Phạm Thế Mỹ qua bất cứ chủ đề nào. Xin hăy đọc một ít ca từ. Tôi tin nguồn âm nhạc sẽ sống lại tức thời trong trí nhớ bạn:
“Những
ngày xưa thân ái anh gởi lại cho ai/Gió mùa xuân êm
đưa rung hàng cây lưa thưa/ Anh cùng tôi bước
nhỏ, áo quần nhăn giấc ngủ/ Đi t́m chim sáo
nở, ôi bây giờ anh c̣n nhớ ?
Những ngày xưa thân ái
xin gởi lại cho ai/ Trăng mùa thu lên cao, khóm dừa xanh
lao xao/ Anh cùng tôi trốn ngủ, ra ngồi hiên lá
đổ/ Trông bầy chim trắng hiện mơ một nàng
tiên dịu hiền
Đêm đêm nằm nghe súng
nổ giữa rừng khuya thác đổ,/ anh c̣n nhắc
tên tôi ?/ Đêm đêm nh́n trăng sáng tỏ bên đồi
hoa trắng nở, cuộc đời anh có vui ?
Thời gian qua mau t́m anh
nơi đâu/ Tôi về qua xóm nhỏ con đ̣ nay đă già/ Nghe tin anh gục ngă/ Dừng chân
quán năm xưa/ Uống nước dừa hay
nước mắt quê hương
Những đường xưa phố cũ thôi
nỡ đành quên sao/ Xin gọi lại tên anh giữa
trời sao long lanh/ Anh giờ yên giấc ngủ tôi nằm
nghe súng nổ/ Như lời
anh nhắc nhở, ôi căm hờn dâng ngập lối
Những ngày xưa thân ái
xin buộc vào tương lai/ Anh c̣n ǵ cho tôi, tôi c̣n ǵ cho em/ Chỉ c̣n tay súng
nhỏ giữa rừng sâu giết thù/ Những ngày xưa
thân ái xin gởi lại cho em”
(Phạm
Thế Mỹ - Những Ngày Xưa Thân Ái)
Trang trọng mời t́m đọc thêm những Bến Duyên Lành, Bên Gối Mộng, Đan Áo Mùa Xuân, Đưa Em Về Quê Hương, Rừng Cây Trút Lá, Tàu Về Quê Ngoại, Thư Về Em Gái Thành Đô, Thương Quá Việt Nam, Thuyền Hoa...để thấy chân t́nh của một nhạc sĩ đă dành cho quê hương. Có lẽ quá nổi tiếng về nhạc quê hương, về ca khúc thắm thiết t́nh người như Bóng Mát, Bông Hồng Cài Áo...mà nhiều người không biết tên tác giả những t́nh khúc nồng nàn như Tóc Mây, Áo Lụa Vàng, tôi không ngại chép lại lời các bài hát ấy như để nhắc nhớ:
“Theo
gió heo may đến đêm gọi t́nh/ Một trời áo tím
trong mắt trên môi/ Như
chiếc nôi êm ru cơn mộng lành/ Gọi vầng trăng
cũ sáng cho hồn vui
Như cánh hoa đêm đong
đưa nụ t́nh/ Gọi mời cơn gió hôn lá trên cao/ Như cánh chim đêm bơ vơ
một ḿnh/ Trời bao nhiêu gió tóc bao nhiêu buồn
Mùa hè vui đôi chân chấp
cánh/ Tóc mây hồng cho mắt long lanh/ Trời mùa đông môi
em thắp nắng/ Tóc mây dài, chân vui đường
vắng/ Rồi mùa xuân cây thay áo mới/ Tóc mây vàng cho
nắng thêm tươi/ Rồi mùa thu xôn xao lá úa/ Tóc mây
buồn phủ kín tim tôi
Ôi tóc mây bay ru lên điệu buồn/ Sợi t́nh
theo gió vỗ cánh bay xa/ Ôi tóc
mây thơm men say lạ thường/ T́nh ta xanh lá tóc mây không
vàng”.
(Tóc Mây - Phạm Thế Mỹ)
“ Ngày xưa em đến, em
mặc áo lụa vàng/ Em đi trong nắng, chân chim xinh
xắn,/ Chưa hề lấm bụi trần, chưa
hề vướng cỏ sầu./ Em đi vào mộng
mơ.
Ngày mai em đến, xin mặc áo lụa vàng, nghe
em hăy nhớ./ Quê hương anh đó, đang cần
đến t́nh người, đang cần đến nụ cười./ Cho tâm hồn nghỉ ngơi.
Ôi ! nắng lụa vàng,
nắng lụa vàng nắng ướt môi em./Ôi ! nắng
lụa vàng, nắng lụa vàng quấn quít chân em./ Trên con
đường nầy, ngày xưa, ngày xưa/ Trên con
đường nầy, chiều nay, chiều nay .....
Chiều nay em đến, vẫn màu áo lụa
vàng,/ Như xưa trong
trắng, mang theo ánh nắng./ Cho đời bớt lệ
sầu, cho ḷng bớt hận thù./Anh đi vào tuổi
thơ.
Mùa thu đă đến, trên
đường lá rụng vàng./ Anh đi trong nắng, mang
theo ánh sáng./ Với màu áo tuyệt vời, với màu
nắng rạng ngời,/ Anh đi vào niềm vui.
(Áo Lụa Vàng - Phạm Thế Mỹ)
Phạm Thế Mỹ không chỉ thành danh bởi nhạc bản, trường ca, nhạc cảnh, mà c̣n rất tài hoa trong việc điều khiển những dàn hợp xướng, kịch đoàn, vũ công. Ra đời trong một gia đ́nh gồm 11 người con. Với vai vế người sau cùng, anh có phần được người mẹ hiền ban thưởng t́nh thương yêu, sự chiều chuộng nhiều hơn. Tôi rất thường ghé thăm lúc anh cư ngụ trong một con hẻm trên đường Hoàng Diệu, Đà Nẵng. Thân mẫu anh có h́nh dạng nhẹ nhàng hơn bà Năm Sa Đéc, kịch sĩ, một chút. Vui vẻ, thương bạn của con là bản tính hầu hết của những người mẹ Việt Nam chúng ta. Nhành hoa Huệ bên anh th́ quá đỗi hiền ḥa. Và Điểm, trưởng nữ của Mỹ, có lẽ nhờ ăn ngủ cùng âm thanh nên rất xinh đẹp. (Điểm hiện đang ở California, theo tin của nhạc sĩ Vĩnh Điện).
Có nghe Phạm Thế Mỹ hát mới thấy sự say nhạc của anh. Những h́nh ảnh đẹp nhất trong khi hát được anh gởi vào nơi bàn tay, chợt mở ra, chợt thu về, như trao gởi như ǵn giữ trang trọng
- Sao, sao, Hoán nghe ra sao. Dễ sợ thật...
Câu hỏi thân quen này vẫn c̣n ấm tai tôi. Nụ cười sung sướng rất trẻ thơ của anh được nở ra măn nguyện. Là một nhạc sĩ giàu t́nh cảm nhưng Phạm Thế Mỹ sống khá mực thước. V́ là một ông thầy của những học sinh sẵn sàng yêu, nên anh đứng đắn trong lịch sự. Hơi chải chuốt một tí. Quần áo, đầu tóc bao giờ cũng tươm tất, gọn gàng. Có một điều chắc ít ai biết, Phạm Thế Mỹ không bao giờ ngồi xe thồ, xe ôm. Nếu không có phương tiện cá nhân, bắt buộc phải đi đâu cần thiết, anh đều nhờ vào xích lô. Không hút thuốc, không uống rượu, bia. Không la cà, bát phố. Anh chân t́nh với bạn bè, nghe lọt tai những góp ư hữu lư. Tôi nhớ một lần, anh viết : “Đường Việt Nam thênh thang một lối...” Tôi và Lê Vĩnh Thọ đề nghị anh thay từ “một” có vẻ “độc đảng” quá, anh thay ngay bằng từ “ngàn” một cách vui vẻ.
Tôi xem anh như một huynh trưởng. Anh quen gọi nửa sau bút danh của tôi: Hoán và xưng “ḿnh” trong mọi dịp gặp mặt, chuyện tṛ. Không phách lối, kẻ cả. Anh thường hay xài một vài chữ khá ngộ. Để tán thưởng khen ngợi ai, hay một cái ǵ, điều ǵ, anh thường dùng ba chữ “dễ sợ thật”. Ví dụ, sau khi kể thành tích tuyệt vời về những hoạt động của linh mục Nguyễn Ngọc Lan, anh nối liền vào... “dễ sợ thật !” một cách ngon lành.
Phạm Thế Mỹ rất kính trọng nhạc sĩ Phạm Duy. Nhưng h́nh như người nhạc sĩ lớn này không thưởng thức tài hoa của đàn em cùng họ Phạm, sinh khác miền đất. Có một lần Phạm Thế Mỹ đưa tôi đến thăm nhà anh Phạm Duy ở Phú Nhuận. Đêm đó là là đầu tiên tôi tŕnh diện tác giả T́nh Ca mà tôi hằng ngưỡng mộ.
Nhạc sĩ Phạm Duy không có tuổi già trong âm nhạc, trong văn hóa nghệ thuật, nên tôi xin được gọi là anh. Anh Phạm Duy tiếp chúng tôi trong pḥng ngủ nhỏ của riêng anh. Thân t́nh này chợt giảm đi t́nh thân, khi anh Duy tự tại, nằm dài trong bộ áo quần bà ba đen một thời của nông dân ḿnh. Anh không thèm nhỏm dậy, cho những người đi sau có cơ hội chạm tay anh để lấy hơi. Với một người vô danh như tôi, điều này không chút mặc cảm tự ti nào. Nhưng với Phạm Thế Mỹ, người đă có dịp được anh truyền đạt ít nhiều tay nghề, khó có thể không buồn. Một chữ đủ làm thầy, nhưng t́nh thầy tṛ có bắt buộc hướng thượng một chiều ? Tôi nhớ đêm hôm đó anh Phạm Duy nói cả phần của chúng tôi. Nhưng tôi không nghe, không hiểu ǵ cả. Bộ áo quần bà ba đơn giản dễ thương và chất phác trở thành rất xa, rất lạ dưới mắt tôi. Chẳng phải v́ chúng có sứ mệnh “xây dựng nông thôn” mà v́ một điểm ǵ đó, tôi chưa nghĩ ra, không mong nghĩ ra. Tôi là người rất kính trọng tài hoa của anh Phạm Duy. Từng lén nghe nhạc anh để ngậm ngùi rơi nước mắt, đến nỗi làm ra thơ, thời sau 1975. “...Đêm mưa nằm ngủ không đành/ tôi trôi theo giọng Thái Thanh dập d́u / Tôi c̣n yêu, tôi cứ yêu..nhạc bao la trải bóng kiều liêu trai...”. Bây giờ cũng vậy. Một điều nhỏ, thú thật tôi đă tiếc, là anh đă chợt xin làm sống lại những ca khúc lỗi lạc vốn chưa hề chết của anh. Cái tiếc vớ vẩn của tôi hẳn được anh Phạm Duy cho là lăng mạn với ít nhiều ngu muội. Tôi vẫn một ḷng kính quí người có “t́nh hoài hương” tuyệt vời này. Khi nhận điện thư lúc 15:08:22-0800 ngày 23 feb.2006 của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân từ quê nhà tin: “Sáng sớm 23-2-2006 anh Phạm Duy ho ra máu phải vào bệnh viện Việt Pháp cấp cứu. May chưa can chi...” tôi rất buồn, đă nhắn đến anh một lời chúc sức khoẻ chân t́nh. C̣n sức khoẻ Phạm Thế Mỹ, bạn tôi ra sao? Chính anh ấy đă thố lộ:
“Tôi
vừa trải qua cơn bạo bệnh, bị đứt
mạch máu, liệt nửa người, nằm đến
7 tháng, hiện vẫn c̣n nói ngọng. Tôi vẫn sáng tác,
mới nhất là một trường ca dài 30 phút. Hiện
ngoài những ca khúc rời, tôi đă viết 6 trường
ca và 4 nhạc kịch”
(trích lại từ trích dẫn
trong bài viết của Bùi Mạnh Hùng).
Dễ sợ thật !
Anh bạn Mỹ của tôi hiện nay là vậy. Trước những bất hạnh của anh mà sao tôi như mỉm cười ?
Năm 1984, gặp nhau tại Sài G̣n. Phạm Thế Mỹ nắm tay tôi lôi về nhà đăi ăn và khoe một người đàn bà mới đến định cư trong đời anh. Anh vô cùng hào hứng:
- Hoán biết không ? Thật kỳ diệu, bà mới của ḿnh cũng là Trần Thị Lư, giống y chang họ tên vợ của Hoán. Dễ sợ thật !
Thực hư về cái tên tôi không rơ. Tôi có chút vui cũng có chút buồn. Nhiều lần định gọi thăm cháu Điểm, (hẳn đă là một người đàn bà), để thăm hỏi nhiều điều nhưng lại thôi. Trong suốt 21 năm qua, tôi có nhận được mấy ḍng thư của Phạm Thế Mỹ vào năm 1989. Anh có vẻ rất buồn. Bút tự cùng vài h́nh ảnh xưa cũ được bày ra để nhớ lại “những ngày xưa thân ái”
Trong khi lúng túng khi muốn viết những ḍng đóng lại bài này cho thật chân t́nh. Tôi chợt nhớ đến một số bằng hữu và nảy ra ư, gởi e-mail xin vài nhận xét, với câu hỏi chung:
- Anh (chị) có biết nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ ? Đă từng nghe qua nhạc Phạm Thế Mỹ ? Anh (chị) nghĩ thế nào về tác giả, tác phẩm ?
Những câu trả lời, bắt buộc không quá 10 ḍng, như một món quà thân mến gởi về người bạn cũ. Tôi tin anh Phạm Thế Mỹ sẽ vui vẻ khi nhận được, dù trong món quà có thể có ngọt ngào lẫn chua chát, tùy quan niệm thưởng ngoạn nghệ thuật cùng cái tâm của mỗi người. Câu trả lời, chỉ nhận qua e-mail trong ṿng 72 giờ, xếp theo thứ tự nhận được. Cảm ơn quí bạn đă tham dự
Nhà thơ, nhạc sĩ Phan Ni Tấn ND:
date : Sun, 19 Mar 2006 20: 40: 09-0500 (EST)
From: phannitan@yahoo.com
“ Biết. Đă từng nghe.
Nhạc PTM rấy hay, đặt trọng tâm về quê
hương và thân phận con người”.
Họa sĩ La Toàn Vinh:
date: Sun, 19 Mar 2006 21: 41: 26 EST
From: LATOANVINH@aol.com
“Trong những năm cuối
của thập niên 60 tôi đă từng nghe nhạc
Phạm-Thế-Mỹ trên đài phát thanh, truyền h́nh v.v
Nhạc của ông lồng lộng một vùng trời quê
hương , man mác như bao cánh diều thăng trầm
bên cạnh những biến động thời cuộc;
đó là sự hiện diện của CHIẾN TRANH...
như trong nhạc phẩm "Trăng Tàn Trên Hè Phố..."
Âm điệu trong nhạc
Phạm Thế Mỹ đượm chất dân gian,
rất dễ dàng chuyên chở đến từng con
người, rất dễ hát , dễ cảm , để
chia xẻ với nhau thêm, trong từng con người trẻ
thời bấy giờ đang đối diện , nhận
diện về sự đổ vỡ đă gần như
tận cùng... Để cùng ước ao cho một ngày mai
đoàn viên trong Thanh B́nh...”
Nhà văn Song Thao
date: Mon, 20 Mar 2006 09:47:07-0500
From: tatrungson@hotmail.com
“Anh hỏi về nhạc với
tôi th́ cũng như...bù trất. Tôi nghe nhạc chỉ
bằng một tai, nghĩa là nghe vậy thôi, c̣n hỏi tác
giả của bản nhạc th́ tôi phải thú nhận
rất dở. Có khi t́nh cờ nghe thấy một bài
nhạc quen quen, khi họ nói tên tác giả th́ mới... “A!
ra đó là nhạc của ông ấy”. Nhạc Phạm
Thế Mỹ cũng vậy. Bữa trước t́nh
cờ nghe thấy một bài nhạc quen quen, người
giới thiệu nói đó là nhạc của Phạm Thế
Mỹ lúc đó mới biết ông Phạm Thế Mỹ
cũng khá...quen với ḿnh mà không biết. Phải chi anh
hỏi về ca sĩ, nhất là nữ ca sĩ th́ tôi rành
sáu câu hơn nhiều!”
Nhà viết biên khảo Nguyễn Vy Khanh
date : Mon, 20 mar 2006 11:01:31 – 0800 (PST)
From: nguyenvykhanh@yahoo.com
“Tôi không quen biết nhạc sĩ
PTM nhưng thời học tṛ rất yêu thích một số
bài hát như Đan Áo Mùa Xuân, Trăng Tàn Trên Hè Phố, Thư
Về Em Gái Thành Đô, Những Ngày Xưa Thân Ái, ... Tuy nhiên
khoảng đầu thập niên 1970, dấn thân trong
một số hoạt động sinh viên ở Sài-g̣n, tôi
t́nh cờ biết được một số hoạt
động trí thức và sinh viên vận của phía bên kia,
cá nhân tôi bớt và rồi hết thích các sáng tác của
những người lúc nào cũng có mặt bên các sinh viên
học sinh hoặc viết báo chống chính quyền.
Những năm gần đây, ở ngoài rồi, có
những lúc (khá hiếm) nghe được các nhạc
phẩm của các nhạc sĩ ấy th́ nhạc của
PTM được đón nhận lại, như một
tiếc nuối, như nỗi buồn phiền đă
nguội nhưng vẫn chưa nguôi !”
Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn (c̣n là một giọng ca trong nhiều sinh hoạt công cộng)
date : Mon, 20 Mar 2006 11: 24: 06-0800 (PST)
From: son_hoang42@yahoo.com
“Tôi không biết nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ
có sáng tác nhiều hay không, nhưng chỉ nghe chừng vài
bài cũng đă thấm thía. Theo tôi nhạc PTM có giá trị
thẩm định với thời gian. Nét nhạc của
ông dạt dào hồn quê và thắm đượm t́nh
người. Tôi có diễn ca nhạc PTM và có
được sự đáp ứng khá nồng nhiệt
phía người nghe. Ca khúc Bông Hồng Cài Áo há chẳng
phải là một trong những tuyệt tác viết về
Mẹ hay sao ? ”
Nhà thơ Triều Hoa Đại
date : Mon, 20 Mar 2006 11:36 : 02-0800 (PST)
From : thdai1@yahoo.com
“Theo tôi, bất kỳ ai đă từng ở Đà Nẵng và miền Trung th́ cũng đều biết đến nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, bởi v́ ông là một người có một tâm hồn rất nghệ sĩ, tính t́nh ḥa nhă. Lời nhạc của Phạm Thế Mỹ là tiếng nói từ trái tim ông bộc phát, một trái tim yêu người, yêu cuộc đời. Và hơn thế nữa, theo tôi, h́nh như ông rất yêu những người “chân lấm tay bùn”, “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên, hương lúa đẹp t́nh quê thêm tŕu mến...”. Tôi rất thích bài này khi c̣n đi học, và chắc sẽ c̣n thích măi đến cuối đời”
Nhà thơ Song Vinh
date : Mon, 20 Mar 2006 21: 55: 46-0800 (PST)
From: songvinh@yahoo.com
“Sài G̣n của những năm 1973 là thời điểm để nhạc của Phạm Thế Mỹ đi sâu vào ḷng người. Có lẽ trong chúng ta ai cũng một lần đă nghe Những Ngày Xưa Thân Ái. Bài ca gắn liền tuổi trẻ với loạn ly, để hôm nay trở thành tiêu mục cho nhiều trang học sinh hải ngoại. Nhạc Phạm Thế Mỹ không ngừng ở đó. Hăy nghe thêm Bông Hồng Cài Áo, Đường Về Hai Thôn, Thư Về Em Gái Thành Đô, Tóc Mây...để biết trên ḍng nhạc của Phạm Thế Mỹ gắn bó với nhiều thứ t́nh: quê hương, con người, lứa đôi.. Khi bước chân xa xứ hôm nay, chúng ta vẫn c̣n Bóng Mát của Phạm Thế Mỹ như một chúy ǵ nhớ nhung nhắn gởi”
Nữ sĩ Nguyên Thảo
date: 21 Mar 2006 05 : 44: 44 -0800(PST)
From: chantam1@yahoo.com
“Cho dù ở độ tuổi nào
trong thời chinh chiến tại quê nhà, chỉ cần có nghe
nhạc, thích nghe nhạc một chút xíu thôi, có lẽ
hầu hết mọi người đều biết
đến ḍng nhạc êm đềm của người
nhạc sĩ mang tên Phạm Thế Mỹ. T́nh bạn, t́nh
quê hương và trên tất cả là t́nh Mẹ, phải nói
rằng nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đă chinh
phục hàng triệu con tim Việt Nam qua ba nhạc phẩm
tiêu biểu Những Ngày Xưa Thân Ái, Trăng Tàn Trên Hè
Phố và Bông Hồng Cài Áo.
Phạm Thế Mỹ
người nhạc sĩ đă 77 tuổi hiện đang
sống quăng đời c̣n lại trên một căn gác
nhỏ nghèo khó ở Khánh Hội, Sài G̣n, sau khi bị
chấn thương sọ năo hơn một năm
trước”
Nhà phê b́nh Đặng Tiến (nhà thơ Nam Chi)
date: Wed 22 Mar 2006 12:55:41 + 0100
From: dangtien@wanadoo.fr
“Tôi có quen Phạm Thế Mỹ,
ông ấy là hàng xóm ở Đà Nẵng. Những năm 60
tôi có nghe nhạc Phạm Thế Mỹ. Nhạc trong sáng,
dịu dzàng, lời ca thường gợi cảnh nông thôn,
êm đềm, thi vị. Ông ấy c̣n làm thơ,
thường là thơ mới, hiện đại. PTM là
người nặng ḷng với dzân tộc và đất
nước, nên đă tham gia những phong trào đấu
tranh cho dzân chủ, tự dzo và ḥa b́nh vào những năm
1963-1975. Thơ nhạc của ông phản ánh tâm t́nh dzân
tộc thiết tha của ông ấy. Tôi cũng biết hai
người anh là nhà thơ Phạm Hổ (Hà Nội), nhà
văn Phạm Văn Kư (Paris,
đoạt giải thưởng lớn về tiểu thuyết
của Hàn Lâm Viện Pháp quốc với truyện dzài Perdre
La Dameure - Mất Nơi Trú Ẩn- 1962. Phạm Văn Kư là
người đă viết tựa cho tập Gái Quê của Hàn
Mặc Tử năm 1932. Thời ấy ông đă có tập
thơ tiếng Pháp Une Voix Sur La voie - Tiếng Nói Trên Đường-
ông ấy đă qua
đời). Tôi vẫn nhớ bà mẹ PTM mà tôi quí mến,
sinh thời bà ấy quan tâm và rất thương tôi”
Nhạc sĩ Phạm Anh Dũng
date: Wed, 22 Mar 18 : 26: 35-0800 (PST)
From: phamanhdung1@yahoo.com
“Phạm Thế Mỹ là một nhạc sĩ có tài. Anh viết nhiều loại nhạc, kể cả trường ca, nhạc kịch. Nhưng Phạm Thế Mỹ nổi tiếng về những ca khúc hay nhạc âm hưởng dân tộc, ngũ cung, tiêu biểu như Bong Hồng Cài Áo. Ngoại trừ bài Tóc Mây có âm điệu trữ t́nh của nhạc tiền chiến”.
Nhà văn Phan Nhật Nam
Thu 23 Mar 2006 12:22:19 EST
From: Pnn943@aol.com
“Khi ở Đà Nẵng (50-60), có
giai đoạn (57-59), tôi ở sau lưng nhà Phạm
Thế Mỹ (đường Nguyễn Thị Giang, bên
cạnh trụ sở Lao động và nghĩa trang
người Pháp) V́ là người dị ứng với
giới ca nhạc từ nhỏ (lúc chưa đủ trí
khôn để hiểu tại sao), khi lớn lên tôi hiểu
ra (và tin là ḿnh hiểu đúng). Những người
đến với âm nhạc v́ nhu cầu nghề nghiệp
và thành công nhờ kỹ thuật hơn là một tấm
ḷng, Văn Cao, Phạm Duy hay Trịnh Công Sơn cũng
thế. Tuy nhiên khi ở tù ngoài Bắc, nghe anh em đàn hát
(trong giá lạnh, đem đen, cảnh khổ, sự
chết) bài Trăng Tàn Trên Hè Phố làm tôi rất xúc động, v́ đây là của
miền Nam chứ không chỉ của Phạm Thế
Mỹ”
Ca sĩ Quỳnh Giao
Thu 23 Mar 2006 19: 15 : 05-0500
From: quynhgiaomusic@aol.com
“Tôi thích bài Tóc Mây khi nghe Thái
Hiền hát bài này. Nhưng bản thân tôi th́ chưa hát bài nào
của anh Phạm Thế Mỹ. Tôi nghĩ phải
biết một số tác phẩm về một
người mới có ư kiến chính xác được...
Nếu có ư kiến nho nhỏ, th́ nhạc anh Phạm
Thế Mỹ, theo tôi, có nét đặc thù của quê
hương, từ lời đến âm điệu,
điển h́nh nhất là bài Bóng Mát”.
Nhà thơ Phan Xuân Sinh .PXsinh@comcast.net . 25 Mar
“Tôi không những biết nhạc
sĩ Phạm Thế Mỹ, mà là học tṛ của thầy
PTM thời trung học đệ 1 cấp. Tôi đă nghe
nhiều nhạc PTM. Nhạc của ông là một trong
những loại nhạc hiếm hoi thời đó. Nói lên
được tâm trạng của một thế hệ
không may mắn v́ ngụp lặn trong một cuộc
chiến tồi tệ. Riêng cá nhân tôi rất kính trọng
phong cách của ông và nhạc của ông là tấm
gương soi cho thế hệ chúng tôi, cất tiếng
ǵum chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thiết nhất”.
Trong số những bạn tôi xin câu trả lời, có ba người từ chối. Tṛ chơi kết thúc như trên kể cũng đẹp quá rồi.
Montréal, hôm nay, 21 tháng 3 năm 2006, đất trời chính thức bước vào mùa xuân. Tuy vẫn c̣n đang ở bảy độ âm, nhưng tôi thấy ấm áp vô cùng. Mới chỉ tạm hoàn tất 9 bài viết cho một dự trù gồm trên hai mươi bằng hữu. Nhưng chắc rồi sẽ xong ngay thôi. Kể chuyện “đời xưa chưa cũ” đâu có ǵ phức tạp, khó khăn lắm, nhất là kỷ niệm đă có sẵn trong ḷng, trong đầu, vui tay th́ cứ việc gơ lên bàn chữ. Hơi khó hơn làm thơ một chút v́ chưa quen ngón nghề. Câu, từ c̣n lủng củng, nhưng chắc không có sao. Có trăng, có chữ là được rồi. Không thành văn th́ thành thơ xuôi. Hơi đâu nghe chị vợ, t́nh cờ một hôm thắc mắc: “Anh viết cái ǵ cả ngày vậy, không biết mỏi lưng à ?” rồi giả đ̣ quan tâm, liếc mắt kiểm soát, đọc thoáng một chặp, la hoảng “viết cái ǵ lẩm cẩm, vô ích quá. Đứng dậy xuống rửa ba cái chén giúp tôi một tay, coi bộ tốt hơn”. Rửa chén th́ tôi vẫn rửa ngon lành đấy chứ, nhưng “lẩm cẩm” cũng phải có để mà thư giăn tinh thần của một người... ngồi không chớ bộ. Có lẩm cẩm mới nhớ được thằng A c̣n sống, thằng B đă chết, thằng C vẫn c̣n cưới vợ như ông ǵ bảy mươi, cha ca sĩ Trần Thu Hà ấy.
Bạn của tôi ơi ! hỡi những “bạn già.. lớp trước nay c̣n mấy / chuyện cũ mười điều chín chẳng như” (Nguyễn Khuyến) của tôi ơi, Tôi nhớ tất cả các bạn, muốn viết một vài ḍng cho mỗi người, từ các bạn thời tiểu học, thời ở mặt trận... Nhưng chắc chắn tôi không thực hiện nổi. Dù tôi không dùng quĩ thời gian c̣n lại để viết những bài bôi bẩn một người tài danh nào đó đă khuất núi, để ăn ké chút hào quang, như một số người, cũng có danh tài chút đỉnh, đă viết, đă liên tục gởi vô tội vạ đến địa chỉ điện thư của nhiều người, trong đó có tôi. Tôi nhắc điều này ở đây có vẻ như lạc đề. Nhưng nghĩ kỹ có lẽ không. Người viết về người cả đấy mà. Và tôi phải băn khoăn, sao có người không chịu để tâm hồn của chính họ thanh thản? Có lẽ nhận e-mail không sạch sẽ nhiều quá, tôi đâm cáu. Thôi th́ hôm nay phải tạm nghỉ ít giờ ra ngoài trời thở vài cái cho vững sức mà nhớ nhung tiếp.
Ghi thêm:
Sau 2 phút kết thúc bài viết, tôi nhận được điện thư của anh Sơn Huy, đài VOVN cho số điện thoại của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Chữ “đương nhiên” tôi ghi trên khi chưa nhận được hồi âm có vẻ vội vàng. Thật ra chính v́ hiểu nguyên tắc, không ai báo số điện thoại người khác cho một người chưa rơ xuất xứ, chữ đương nhiên chính là điểm này. Mong anh Sơn Huy thông cảm và không quên cảm ơn anh một lần nữa.
Cơm tối xong. Nằm thẳng lưng trên giường, định xem hockey nhưng lại thôi, tôi nhờ Lư bấm số điện thoại gọi Phạm Thế Mỹ, vào lúc 20 giờ 38 phút, số gọi đầy đủ từ Montréal về Sài G̣n: 0118-488.265.434. Chuông reo, con gái Mỹ bắt phone, rồi tôi gặp được người muốn gặp Cuộc điện đàm đến 21 giờ 11 th́ ngưng.
Những giây phút đầu thật xúc động. Anh Mỹ thỉnh thoảng gọi lớn: Hoán ơi ! nhớ quá...tôi th́ xưng hô lộn xộn lúc tôi, lúc em. Giọng anh nói có lúc nghe rơ như xưa, có lúc không nghe được. Giọng tôi anh nghe rất rơ, không thay đổi, theo nhận xét của anh. Anh cho biết ăn được, ngủ được. Thân thể không ốm yếu, chỉ bên chân phải không đi được tử tế. Anh buồn v́ cả ngày như bị giam, có ngồi trước đàn dương cầm nhưng chóng chán. Anh thúc hối gởi thơ về cho anh phổ nhạc chơi. Anh đọc cho tôi địa chỉ: cư xá Vĩnh Hội, Pḥng T11, Phường 6, Quận 4 thành phố HCM. Tôi hỏi về người mang tên Sơn Huy, anh không biết, nhưng lại biết anh Nguyễn Ngọc Túy, học sinh cũ. Anh Túy có tin cho anh biết về buổi Phạm Thế Mỹ Ngày Xưa Thân Ái, anh mừng lắm và đang mong đợi ngày ấy chóng đến, dù anh không được trực tiếp tham dự. Anh kể với tôi chuyện gia đ́nh, khoe sắp có cháu nội và chị Lư vẫn đi dạy học lai rai nuôi gia đ́nh qua ngày. Mỹ có ba cháu với chị Huệ, hiện đă trưởng thành, cùng ở California với chị. Anh cũng có một trai, 27 tuổi và một gái, vừa xong tú tài, với chị Lư. Anh cho biết Miên Đức Thắng đă đi đi về về Việt Nam làm ăn, và thỉnh thoảng ghé đến thăm anh. Ngoài Thắng ra gần như không c̣n ai. Anh cũng cho biết đă điện thoại thăm anh Phạm Duy, anh Duy vẫn thích nói nhiều như xưa. Anh nhắc đi nhắc lại đă 76 tuổi rồi (sinh năm 1930 là chính xác), lại không đi đâu được, bạn bè chẳng c̣n ai. “C̣n ai, ai biết c̣n ai / c̣n riêng ta với quan tài nhớ thương/ quệt t́m một chút bụi đường / gắng h́nh dung thử nỗi buồn đến đâu /ai về đâu, ai đến đâu/ đến đâu là đến đâu đâu bây giờ ?/ c̣n văn, c̣n nhạc, c̣n thơ / có c̣n cái chỗ cùng vào ba hoa/ cho dù chỉ c̣n ḷng ta/ vẫn xin bè bạn thiết tha ghé về...” (Luân Hoán).
Tôi hứa sẽ cố gắng về thăm anh, nhưng chính ḿnh cũng không rơ giá trị của lời hứa được bao nhiêu phần trăm khả thi. Hoán ơi, nhớ quá ! anh gọi lên năm, bảy lần trong câu chuyện. Làm sao mà không nhớ được những năm tháng đă có với nhau những kỷ niệm vui buồn. Tôi sẽ gởi cho anh những cuốn sách của tôi theo như lời anh căn dặn. Những thứ xa xỉ phẩm này chưa biết gởi bằng cách nào. Ước chi Bưu điện Việt Nam thực thi nghị quyết 36, 37 hay 38 ǵ đó một cách “vô tư” về văn hóa phẩm...Buồn buồn tôi viết mấy câu chơi, tạm lấy tên “thăm nhau qua điện thoại”.
chợt nghe được
giọng bạn hiền
sao tôi bỗng lặng im
liền mấy giây
coi ḱa, giọt nước ǵ
đây
rịn trên khóe mắt cay
cay bất ngờ ?
Hoán ơi, nhớ quá...bao
giờ
gặp nhau như thuở
dật dờ ngày xưa ?
anh hỏi, tôi lặng... quên thưa
gượng tay chặm
mắt ḷng chưa sạch ḷng
giọng anh như tấm gương
trong
không soi cũng thấy tháng
năm chúng ḿnh
cái thời anh rót chân t́nh
lên từng nốt nhạc
hiển linh cho đời
cái thời tôi măi ham chơi
bỏ rơi một
đoạn chân nơi chiến trường
nhạc anh tḥng cánh tay
buồn
nâng tôi đứng dậy
b́nh thường lâu nay
bây giờ, ai đỡ anh
đây
câu thơ tôi chỉ sợi
dây úng sầu
có c̣n được
vịn vào nhau
vui chân qua khắp chiều
sâu thân t́nh
giữ cho ḷng măi rập ŕnh
cái thương cái nhớ
xinh xinh cuộc đời
sống trong anh sống
trong tôi
hạt thơ mầm
nhạc xanh chồi như xưa
tôi chưa thừa, anh
chưa thừa
ít ra c̣n điểm tựa
vừa nhớ nhung
vét t́nh văi rộng không trung
Hoán ơi, nhớ quá,
nơi dừng, đến chưa ?”
lưu ư: mọi những dấu (/), sử dụng phía trên, được thêm vào để thay dấu chấm xuống hàng, không có trong nguyên bản.