Hoàng Xuân Sơn, “Con Đ̣ Khẳm Nặng
T́nh Ni Nớ”
Luân Hoán
Khởi
từ chữ kư vợ chồng em trai tôi, Lê Hân- Trần Thị
Bích Vân, đến những chữ kư của giới chức
có thẩm quyền Bộ Di Trú Québec, chính phủ Canada, tôi
và gia đ́nh, gồm sáu người, bắt đầu
bước vào một cuộc sống mới, ngày 30 tháng 01
năm 1985. Trước ngày tháng khó quên này, ở Sài G̣n, tôi
lo trước một số việc cần thiết.
Nhưng v́ nôn nao, hồi hộp, chúng tôi thật sự lúng
túng trong sự chuẩn bị. Chuyện mua sắm vật
dụng linh tinh để mang đi, vốn không cần thiết
theo lời nhắn dặn của chú em, nhưng chúng tôi vẫn
thực hiện. V́ không làm việc này, chẳng biết phải
làm những ǵ. Trong niềm vui, người ta dễ trở
nên ngờ nghệch. Ngoài khá nhiểu bộ tranh sơn mài,
đủ cỡ, chúng tôi c̣n “chở
củi về rừng” rất nhiều thứ ngớ ngẩn:
muỗng nĩa inoxydable, ly
tách (loại đă theo chân binh sĩ Hoa Kỳ đến Việt
Nam), kem đánh răng, xà pḥng thơm…Trong mớ hành lư di dân
ngàn dặm xa ấy, không có một nhúm đất nào của
quê hương, không có một mẩu lá cây nào được
ép khô trong vở. Vài con sư tử đá, vài con rùa đồng,
vài con cua bằng đất nung… tất cả, mỗi loại
chỉ lớn bằng bàn tay. Đó là tài sản chúng tôi
đă mang theo, đến một vùng đất khác hẳn
về phong thổ, thời khắc, ngôn ngữ lẫn tập
quán. Cùng với những di vật này, riêng tôi, c̣n có một
cuốn Agenda, khổ 10cm x
19cm, tầm cỡ livre de poche,
do nhà xuất bản Văn Hóa sản xuất năm 1985. Cuốn
sổ tay không có số trang. Phần đầu có 8 trang in
ḍng kẻ ngang, dùng để ghi chú. Hai trang nói về sự
thay đổi ngày tết âm lịch của năm Ất Sửu
(1985), 1 trang ghi các ngày tiết trong năm, đại hàn, tiểu
hàn vv…,1 trang ghi số những đường dây điện
thoại đặc biệt, mà trong bản in dùng hai chữ
“máy nói”, 1 trang quảng cáo nhà xuất bản Văn Hóa, hai
trang in bảng so sánh giờ của Hà Nội với một
số thành phố lớn trên thế giới, 1 trang lịch,
đủ 12 tháng, chữ nhỏ. Tiếp theo là phần
chính: những trang giấy in sẵn tháng, và các ngày trong tuần.
Theo thứ tự hàng ngang: thứ…ngày…rồi ô để trống
có ḍng kẻ để người sử dụng viết
ngay thẳng., Sau phần này, hơn nửa cuốn c̣n lại
là những trang có ḍng kẽ sẵn. Trong toàn tập có in một
phụ bản, ảnh chụp hai cô thiếu nữ trong hai
màu áo vàng và đỏ trước ṭa đô sảnh Sài G̣n.
Hai màu vàng đỏ của hai chiếc áo dài, đă nhiều
lúc làm tôi băn khoăn và nao nao buồn. Sự chia cắt
tồi tệ của đất nước đă chấm
dứt. Nhưng sự thống nhất của tổ quốc
lại đẩy chúng tôi ra đi, chẳng thể không ngậm
ngùi.
Tôi kể linh tinh như trên
chỉ cốt trợ hứng, lấy đà để khai
rằng, tôi đă dùng cuốn agenda
này để ghi khá nhiều tên họ, địa chỉ, số
điện thoại những người tôi đă
được quen biết, hiện sống tại Canada và
Hoa Kỳ. Dĩ nhiên có cả Việt Nam. Những tên họ
ấy, tiêu biểu có: Lê Hoàng, Hoàng Thị Liêm, Hoàng Kim Uyên,
Huỳnh Thị Tâm, Trương Chánh Học, Hoàng Xuân
Sơn, Hoàng Trọng Bách, Hoàng Trọng Thược, Tăng
Nhựt Thăng, Đoàn Thị Kim Sơn, Châu Thị Lan, Lê
Hân, Đinh Hoàng Huy, Nguyễn Gia Danh…nhiều lắm. C̣n dài.
Tôi đă ghi đầy đủ, cặn kẽ với hy vọng
sẽ liên lạc được khi đă ở trên đất
Canada. Sự đơn lẻ nơi xứ người chắc
chắn sẽ có được
hơi thở đồng hương, đồng bào
sưởi ấm
Dự định chu đáo
và có mục đích dễ thương như thế,
nhưng phải hơn một tuần lễ sau ngày có mặt
tại Montréal, tôi mới dám thử thực hiện. Tôi
đọc lướt danh sách. Có khá nhiều người ở
cùng mă vùng điện thoại, 514, với tôi. Lẽ ra tôi gọi
cô cựu á hậu Việt Nam Hoàng Kim Uyên trước,
nhưng rồi đổi ư, bấm số của Hoàng Xuân
Sơn. Chuông reo…chờ đến hai, ba phút, đang chuẩn
bị gác điện thoại, th́ nghe được:
- Sơn nghe đây, ai đó, có ǵ không ?
- Hoàng Xuân Sơn hả ? Anh đây, Châu
đây, em mạnh không ?
Có tiếng va chạm nhè nhẹ
như tuồng thay đổi tay nắm điện thoại,
rồi tiếng hỏi ngắn gọn, thắc mắc
- Xin lỗi ai đầu dây, tôi, Hoàng Xuân
Sơn đây. Anh cần ǵ không ?
Tôi hơi khựng một
giây. Rơ ràng cái giọng trọ trẹ, nhưng sao có vẻ
là lạ, như khàn hơn…ngờ vực, tôi thăm ḍ:
- Xin lỗi có phải Sơn em chị Dung
đó không ?
Đầu dây bên kia với
vẻ vội vă:
- Xin lỗi, ông nhầm dây rồi, tôi là
Hoàng Xuân Sơn.
Tôi không kịp nghe hết
câu, không nhớ tôi đă gác máy trước hay Hoàng Xuân
Sơn bực ḿnh cắt ngang trước. Gác máy rồi tôi
vẫn c̣n băn khoăn. Rơ ràng Hoàng Thị Xuân Dung, một
đồng nghiệp của tôi ở Ngân hàng Việt Nam
Thương Tín, chi nhánh Đà Nẵng, cho tôi số điện
thoại của Sơn. Dung là chị ruột của Sơn. Hai
chị em, và cô Hoàng Thị Xuân Ba nữa, đều là em ruột
của nghị sĩ Hoàng Xuân Tửu, em họ của Trung
Tướng Việt Nam Cộng Ḥa Hoàng Xuân Lăm. Dân Quảng
Trị. Tôi thắc mắc rồi bực ḿnh về sự
thất bại trong lần ra quân t́m bạn đầu tiên
của ḿnh. Nh́n những địa chỉ khác tôi đâm ra
nghi ngờ, tạm dẹp qua chuyện gọi phone.
Kể từ đó đến
hôm nay, gần trọn 21 năm dài, tôi vẫn chưa liên lạc
được với Hoàng Xuân Sơn, cậu em của
thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng Ḥa Hoàng Xuân Tửu.
Nhưng đă thành người bạn khá thân với nhà
thơ Hoàng Xuân Sơn, người đă tiếp điện
thoại của tôi trong giờ anh đang điều hành
công việc tại một hăng may, do chính anh và người
vợ hiền Quách Kim Lân làm chủ, hôm nào.
Sự
trở thành bè bạn giữa nhà thơ Hoàng Xuân Sơn và
tôi, không có ǵ khó hiểu. Những người cầm bút,
đại khái như những nhân vật giang hồ trong vơ
lâm của truyện và phim kiếm hiệp Tàu. Không Đông
Tà, Tây Độc, chẳng Lăo Ngoan Đồng, Hồng Thất
Công, ...nhưng cùng ở chung một thành phố, cùng gặp
tên trên nhiều tạp chí, việc t́m đến thăm
nhau, chuyện tṛ, tán dóc… là chuyện đương nhiên. Ấy
vậy, mà bây giờ nghĩ lại, nhớ không ra đầu
dây mối nhợ buổi gặp nhau lần đầu tiên
như thế nào? Tại đâu. ? Bè bạn khen tôi có trí nhớ
tốt, xem ra cần xét lại. (**) Để từ từ
đi lần trở về những kỷ niệm đẹp,
tôi xin khoe thân thế, sự nghiệp của ông bạn tôi
trước tiên:
Hoàng Xuân Sơn tên thật và
cũng là bút hiệu. Ngoài ra anh c̣n có những bút danh rất
quen thuộc khác: Hoàng Hà Tĩnh, Sử Mặc. Năm Nhâm Ngọ, 1942, tại làng
Vỹ Dạ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, bà Nguyễn
Thị Bích Châu, tự Mười (qua đời tại
Montréal năm 2001)sinh cho ông Hoàng Xuân Hiển (qua đời
năm 1951 tại Huế), người gốc làng Nhân Thọ,
phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, một cậu
con trai. V́ thời buổi chiến tranh, phải bôn ba di tản
qua nhiều nơi nghèo khó lánh nạn, nên tờ khai sinh của
cậu quí tử Hoàng Xuân Sơn bị thất lạc. Và
cũng bởi chạy giặc nhiều, chạy luôn qua tuổi
cần đến lớp học, nên khi có dịp làm lại
khai sinh, ông bà Hiển, Châu không ngại quay lui ngày tháng ra
đời của cậu con ḿnh
xuống 5 năm, cho phù hợp với trang lứa
a,b,c. Năm 1942 trở thành năm 1947 cũng chẳng xê
xích bao nhiêu, v́ ngày nay nh́n Hoàng Xuân Sơn cũng rất
tương xứng với năm sinh 1947. Sự trẻ
trung, tươi vui đến độ hồn nhiên đă
được ba mạ lo trước cho anh rồi.
Tuy nhập
môn trễ, nhưng Hoàng Xuân Sơn là học sinh xuất sắc
của trường Bán công Huế. Anh lấy ngay cái hạng B́nh trong kỳ thi Trung học
Đệ nhất cấp, và đương nhiên được
chọn vào trường trung học công lập Quốc Học.
Từ ngôi trường danh tiếng một thời này,
Hoàng Xuân Sơn lần lượt lấy về cho ḿnh các
văn bằng: Cử nhân Giáo khoa Triết Học Tây
Phương của Đại học Văn Khoa Sài G̣n, Cao
Học Chính Trị Kinh Doanh của Đại học Đà
Lạt. Thành công trên bước đường học vấn,
mở ra cho Hoàng Xuân Sơn một đời sống sung
túc, dễ chịu, dù anh thả ḿnh vào cuộc đời
công chức. Một cái ghế Thanh Tra của Tổng Cục
Bưu Chính Việt Nam Cộng Ḥa thuộc Bộ Giao Thông
Bưu Điện đă dành cho anh. Trên bục giảng của
trường Quốc Gia Bưu Điện, sau đó,
cũng có dấu chân anh đứng nhiều năm.
Với bản tính lạc quan,
yêu đời, Hoàng Xuân Sơn t́m đến cùng các sinh hoạt
văn học nghệ thuật và xă hội tại thủ
đô miền Nam Việt Nam. Anh trở thành một thành viên
năng động của Chương tŕnh Phát Triển
Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường, gọi tắt
là CPS. Nhóm Sinh viên Văn Hóa cũng có chân anh. Không dừng lại
đây, anh c̣n cùng bạn hữu sáng lập và điều
hành Quán Văn, Quán Thằng Bờm, là những địa
điểm rất có tiếng vang thời bấy giờ.
Để sinh hoạt sống động, nhịp nhàng
hơn, Hoàng Xuân Sơn cùng người em trai, Hoàng Xuân Giang
và người bạn, Ngô Vương Toại cho khai sinh ban
nhạc tài tử Giang-Sơn-Toại. Đôi song ca Sơn,
Giang được giới trẻ Sài G̣n biết đến
nhiều từ những buổi tŕnh diễn tại nhiều
tụ điểm trong thành phố.
Năm 1971, Hoàng Xuân
Sơn đă góp tiếng trong băng nhạc ghi âm tại
pḥng thu Pat Lâm, Chợ Lớn : Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy
Mặt Trời, hát cùng chính tác giả Trịnh Công Sơn,
Vân Ḥa, Vân Quỳnh, Vân Khanh . Băng nhạc này do một số
bằng hữu của TCS sưu tập lại được
. Quư bạn có thể nghe từ địa chỉ web
Saigonline.com, trang Trịnh Công Sơn.
Năm 1970, cùng với ca hát,
Hoàng Xuân Sơn làm thơ và gởi đăng trên các tạp
chí Văn, Chính Văn, rồi lần lượt theo sự
xuất hiện của tạp chí, anh có thơ trên: Diễn
Đàn, Khởi Hành, Nghiên Cứu Văn Học, Đối
Diện, Thân Hữu, Xây Dựng Nông Thôn, Ngưỡng Cửa,
Nhà Văn…
Sau 1975, Hoàng Xuân Sơn
được nhà nước xă hội cho lưu dung nhờ
có khả năng chuyên môn từ trường ốc. Tuy vậy
sự thiếu vắng những sinh hoạt hợp với
sở thích, đă đẩy Hoàng Xuân Sơn ra đi và đến
Montréal cuối năm 1981. Cùng với vợ, anh bắt
đầu tổ chức lại cuộc sống nơi xứ
người. Trong gần 25 năm Hoàng Xuân Sơn đă thủ
đủ vai, từ chủ đến thợ, lúc lên lúc xuống.
Có thời anh phải qua tuốt bên Washington cùng Ngô
Vương Toại, Giang Hữu Tuyên làm báo, làm bồi
bàn.cho một quán ăn của bạn . Không khá, lại trở
về Montréal, ở nhà thuê, đi xe thuê một thời gian,
trước khi mua được một ngôi nhà khang trang tại
thành phố Roxboro, ngoại vi Montréal. Chị Lân trở thành
viên chức thành phố Montreal. Cuộc sống mỗi ngày
một ấm áp với sự thành tài nha sĩ của cậu
con trai duy nhất, Hoàng Xuân Duy Khiêm. Năm 2005 ông bà Hoàng Xuân
Sơn bán nhà, mua nhà mới ở
Laval.Và anh chưa thể nghỉ hưu v́ cái năm sinh 1947,
ngày 01 tháng 01. Lẽ ra bước vào năm 2007 anh đă ung
dung ngồi nhận tiền già như tôi, nhưng giờ phải
chờ thêm 5 năm rong chơi trong tuổi trung niên nữa
!
Một điểm son trong
tiểu sử Hoàng Xuân Sơn, anh không buông tay đàn, tay viết,
trong cuộc sống chạy đua với thời gian tại
hải ngoại. Cảm thấy nơi ăn chốn ở
ổn định một chút, anh nắm giữ ngay nhiệm
vụ trưởng toán Du Ca Đồng Vọng một thời
gian, tham gia tích cực vào các chương tŕnh văn nghệ
của cộng đồng người Việt Quốc Gia
vùng Montréal và phụ cận, cùng lúc nguồn thơ của
anh mỗi ngày một sung măn. Gần như tuần báo, nguyệt
san, tạp chí…ở bất cứ quốc gia tự do nào
trên thế giới cũng xuất hiện đều đặn
những Sử Mặc, Hoàng Hà Tĩnh, Hoàng Xuân Sơn…không
chừng c̣n nhiều bút hiệu khác mà tôi chưa kịp phát
hiện. Anh trở thành quen thân với bạn đọc của
các báo: Làng Văn, Văn Học, Văn, Thế Kỷ 21, Chủ
Đề, Sóng, Sóng Văn, Nắng Mới, Saigon Times, Hợp
Lưu, Phố Văn, Gió Văn, Đi Tới, Tạp chí
Thơ… cùng nhiều tờ báo trên mạng lưới điện
toán.
Hoàng Xuân Sơn cũng không
lười tham gia vào một số hội đoàn như
Văn Bút (Trung tâm Québec), Gia đ́nh Cựu Giáo chức, nhóm
Việt Thường (giai đoạn đầu với
Luân Hoán, Đỗ Quư Toàn, Phạm Nhuận, Hoàng Xuân Sơn,
Hồ Đ́nh Nghiêm, Lưu Nguyễn, Lê Quang Xuân / hiện
nay với Luân Hoán, Song Thao, Lưu Nguyễn, Hoàng Xuân Sơn,
Trang Châu, Hồ Đ́nh Nghiêm)…
Năm 1988, Hoàng Xuân Sơn
cho ấn hành tập thơ đầu tiên của anh, thi tập
Viễn Phố. Sách dày 140 trang, giấy màu mỡ gà. B́a do
chính Hoàng Xuân Sơn vẽ và tŕnh bày. Trang điểm thêm cho
phần h́nh thức có các bản vẽ của Vơ Đ́nh, Thạch
Miên, Đinh Cường, Hoàng Xuân Sơn. Làm duyên cho tập
thơ c̣n hai bản phổ nhạc của Hà Thúc Sinh và Phan
Ni Tấn ND. Tôi chưa được hân hạnh góp tay
trong thi phẩm đầu của Sơn nhưng được
anh đề tặng ở một bài mang tên Phong Thổ.
Nguyên bản:
“Nếu
ai thấy nắng c̣n than mệt / qua hết mùa đông tuyết
nẫu người/ cái lạnh thổi từ âm phong trắng/
khô khốc đêm dài cánh cửa tôi.
Có một đôi khi đời khóa trái/ làm sao nhốt
được cơi mây ngoài/ như nắng chứa chan ḷng mới
gội/ chép được ǵ giấc mộng vừa trôi ?
Mười hai năm tới c̣n xô đẩy/ lấn
lướt ra đi tận miệt nào/ đất trời
bốn phía nắp vung đậy/ sông nước cách lề
một hướng sao.
B́nh thản trong ḷng không dợn sóng/ bạn cứ ngâm
đi mấy đoạn trường/ đă quen nếp sống
dày phong thổ/ chẳng có ǵ ngoài chén rượu suông.
Uống nhé đêm nay mừng tĩnh nạn/ hát bạn
nghe chơi khúc vô cầu/ những kẻ ngồi không từ
sáng sớm/ chiều ngậm ngùi hồn lọt cửa sau.
Thêm mười năm nữa không câu thúc/ đời
đă lây chưa cái nợ nần/ kẻ đến người
đi dần thưa thớt/ tóc dài treo một sợi ngh́n
cân.
(Viễn Phố , Hoàng Xuân Sơn, trang 66, 67)
Nhận bản tặng Viễn
Phố Hoàng Xuân Sơn đề tặng trong tháng 8/1988 tôi
không có nhiều ngạc nhiên. Nhưng mở trang trong, đọc
được bài đề tặng ḿnh, tôi thật sự
cảm động. Chỉ sau ba năm, từ cái cuộc
điện đàm không mấy vui trước đây, tôi
đă có thêm được một bạn thơ, và nhất
là người bạn đó tỏ ra rất hiểu ḿnh,
đă chia xẻ với ḿnh nỗi buồn thất thời,
thất chí: Những kẻ ngồi
không từ sáng sớm/ chiều ngậm ngùi hồn lọt
cửa sau…đúng là một h́nh ảnh trung trực của
cái tôi thời bấy giờ.
Trong
thời gian viết lăng nhăng kiếm nhuận bút của
nhà chủ báo Sóng, Nguyễn Tăng Chương, dưới
bút danh Châu Ngọc Lê, tôi có thực hiện một bài phỏng
vấn tác giả Viễn Phố, loanh quanh về chuyện
làm thơ. Xin dồn lại đây ít câu trả lời của
Hoàng Xuân Sơn, mà tôi nghĩ có thể nắm bắt
được một ít nhận định và quan niệm
về thi ca của anh.
… “Trong
cương vị một người làm thơ và
được đọc thơ ḿnh trước, tôi thấy
bài nào tôi “chịu” đều xuất phát từ những cảm
xúc ít nhiều có thật. Bởi thế, thơ phải “cảm”
trước tiên, tùy tâm trạng, hoàn cảnh mỗi người.
Thơ không cần giải thích dài ḍng.
…cái hồn thơ trong mỗi người Việt Nam
vẫn c̣n tiếp tục duy tŕ măi măi. Thơ trở thành
máu huyết, mà máu huyết th́ luân lưu hoài không bao giờ
cạn. Và đó chính là niềm tự hào, là điều hănh
diện của dân tộc Việt Nam (tuy nhiên, vẫn có
trường hợp ngoại lệ đối với những
ai cố t́nh khước từ Nguồn Việt, đối
với mọi chủ thuyết vong bản phi nhân)
…trong văn chương nói chung ,không có sự phân biệt
bộ môn nào chủ yếu, thứ yếu. Như bàn tay có
năm ngón, ḍng sông lớn có những phụ lưu đổ
về, hay một khu vườn với trăm hoa đua nở.
Thơ, văn, họa hay nhạc hay bất cứ một bộ
môn nào khác cũng đều mang một sứ mệnh riêng,
một nét đẹp riêng, làm cho khu vườn văn
chương khởi sắc, cho ḍng sông văn học nghệ
thuật tuôn chảy đời đời và cho bàn tay xây dựng
t́nh người, t́nh đời hướng về chân, thiện,
mỹ.
Tôi là một người
làm thơ, bởi thế, một cách chủ quan, tôi cho rằng
thơ chiếm một vị trí hết sức đặc
biệt trong sinh hoạt văn học nghệ thuật. Anh
thử nh́n lại xem: giở bất cứ tờ báo nào, một
tập san nào (từ trước tới nay), thơ vẫn
dồi dào, phong phú không kém văn về phẩm cũng
như về lượng. Để không khí buổi nói chuyện
bớt nặng và vui đùa một tí, tôi xin trích lại phát
biểu của một vài văn hữu cho rằng làm
thơ “ngon lành” hơn viết văn:
“Con đường
vương giả là phải làm thơ” (Vơ Phiến, lời tựa tiểu thuyết Ngựa
Nản Chân Bon của Nguyễn Mộng Giác)
hoặc:
“Chính nhiều người kể lại đă gặp
và nh́n tận mắt nhiều thi sĩ mặc vét, đeo cà
vạt…” (Nguyễn Bá Trạc, Ngọn Cỏ Bồng,
trang 32, ḍng 10, 11)
Và
“Thơ cao quư, ngắn gọn, chừng hai ba câu, nhà
thơ có thể biểu dương sở trường, sở
đoản của ḿnh. C̣n nhà văn phải viết ít nhất
một vài trang mới làm cho độc giả biết tài
nghệ của ḿnh” (Hồ
Trường An-trích thư riêng)
… Tập Viễn Phố quả được viết
dưới nhiều thể loại thơ, tùy tâm trạng,
tùy lúc, không có chọn lựa trước. Tôi thấy
thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay.Thơ thất ngôn
âm điệu du dương trầm bổng, quen thuộc,
dễ lôi cuốn. Tuy nhiên, nếu phải chọn, tôi sẽ
chọn h́nh thức 6 chữ, v́ không cường điệu
quá, ngắn ngủi quá, trầm buồn, vừa đủ
để tâm sự, kể lể, tỉ như:
“Một hôm ngộ cảm
đất trời
Cái thân run đi nhè nhẹ
Quanh ta những cảnh và người
Nh́n ra vô cùng nhỏ bé”
(tạp chí Sóng số 80 Xuân Kỷ
Tỵ, 1989)
Trở lại với thi phẩm
Viễn Phố. Chúng ta bắt gặp ngay từ những
trang đầu, Hoàng Xuân Sơn bày tỏ rơ hơn về
quan niệm thi ca:
…
“ Thơ - những ǵ hiện ra bất chợt, đôi khi,
trong một khoảnh khắc nào đó của đời sống
như muốn thầm th́, kể lể về một giấc
mơ, một thể t́nh từ một gặp gỡ, một
chuyến đi bên đường lữ thứ. Tôi làm
thơ và ao ước muốn nói lên những điều ấp
ủ, khát khao, muốn nói lên tiếng nói Yêu thương, Phẫn
nộ từ Tấm ḷng chân thật đó. Với tôi,
thơ không rao truyền một ngôn ngữ nào to tát, thơ
chỉ là tâm sự, là “một chút riêng tư” trao gởi
đến người thân, bạn bè, những kẻ đồng
hành biết và sẽ quen…”
Tôi nghĩ quan niệm này của
Sơn có rất nhiều bạn làm thơ đồng t́nh,
trong số này có tôi. Làm thơ sẽ giản dị như
hít, như thở, nếu thật sự ḿnh yêu thích thi ca. Từ
sự giản dị này, thơ chỉ là những phát tiết
những điều đơn thuần nhất của tâm
hồn. Bắt ép thơ vào một cái rọ ngôn ngữ nào
đó, dù tưởng rất tự nhiên, không gượng
ép, cũng có thể làm cho thơ trở nên hư hỏng.
Căn
nguyên t́nh ư, cảm nhận của ḿnh ra sao cứ tùy nghi vào
cái hứng để thể hiện. Dĩ nhiên, điều
này chỉ dành cho những người thật sự biết
làm thơ.
Họa sĩ kiêm nhà văn
Vơ Đ́nh, “một người
có hân hạnh cùng quê ở Thừa Thiên, Huế với thi
sĩ họ Hoàng”, trong bài viết “Đọc thơ một
ngày xuân lạnh” để thay lời bạt cho Viễn Phố,
nhận xét:
… “Hoàng
cũng nhớ nước, nhớ người, cũng
đau sầu viễn xứ, trong thơ Hoàng cũng có
rượu, có say, cũng có khi vỗ tay mà hát ‘ngửa mặt
nh́n trời đất hề’…Nhưng thơ Hoàng bộc lộ
nhiều nhất ở chỗ, nói theo kiểu Huế ‘da diết
dễ sợ’. Thơ Hoàng trĩu nặng u uất,ràn rụa
hư hao…”
Viễn Phố được
Hoàng Xuân Sơn chia làm 4 phần, mỗi phần mang một
tên riêng: Quê Nhà Như Một Vết Thương, gồm 14 bài. Ở Một Nơi Đến,
gồm 19 bài. Hoài Niệm, gồm 22 bài.Dù Đường
Thiên Lư, gồm 22 bài. Trong toàn tập, 77 bài, Hoàng Xuân Sơn
dành một bài tặng vợ con, một bài dành cho cậu em
Hoàng Xuân Giang, một bài tặng cho ba người cháu và 16
bài dành tặng bè bạn. Điều này cho thấy anh rất
thương quí bằng hữu. Những phóng bút thân thiện
này là bản tính đích thực ngoài đời của anh.
Khác hẳn với hai câu tục ngữ xưa cũ với
quan niệm lạc hậu, hẹp ḥi về nam thanh nữ
tú của đất “non bất
cao thủy bất thâm”, Hoàng Xuân Sơn là một người
chân thật, thẳng thắn. Ḷng tốt của anh dành cho
mọi người được hầu hết bè bạn
công nhận, tán dương. Trong mọi sinh hoạt văn
học nghệ thuật, như đón bạn văn từ
phương xa đến, các buổi lễ lớn của
người Việt tổ chức, những buổi thuyết
tŕnh, ra mắt sách, hầu hết đều có sự góp phần
của Hoàng Xuân Sơn. Dù nhận được vô số
tràng pháo tay tán thưởng cùng những lời cổ
vũ nồng nhiệt, anh luôn luôn giữ được bản
tính khiêm nhường trong tài nghệ của ḿnh. Tôi đă
đặt câu hỏi về khả năng âm nhạc,
được anh trả lời:
- Tôi không biết
một tí ǵ về nhạc lư nên không có chuyện sáng tác nhạc
đâu anh. Hát
th́ có hay hát. Hát cho bạn bè
nghe, có tí hứng th́ nghe tàm tạm, lên sân khấu th́…dở ẹc…
Nhắc về ra mắt
sách, kể từ lúc tôi có mặt tại Montréal, anh em bạn
văn của thành phố văn hóa này đă tổ chức
được trên dưới 30 buổi. Tôi chưa có tác
phẩm nào được tŕnh diện giới ham đọc
sách báo tại Montréal, nhưng đă được anh em cho
tŕnh diện cuốn sách viết về tôi của nhiều
tác giả, đó là cuốn Chân Dung Thơ Luân Hoán, ra mắt
tại giảng đường B.421 đại học
Montréal, số 200 rue Vincent D’Indy, lúc 19h30 ngày 15-5-1992. Hoàng Xuân
Sơn cùng nhiều giọng ca khác đă có mặt trong phần
văn nghệ, đi kèm. Riêng với Hoàng Xuân Sơn, anh
cũng có một tập thơ được phối hợp
tổ chức với hội Văn Bút Việt Nam (Trung tâm
Québec) , tŕnh làng trọng thể tại Centre d’Essai thuộc
đại học Montréal ngày 04 tháng 12 năm 1993. Đây là
thi phẩm thứ hai của Hoàng Xuân Sơn có tên Huế Buồn
Chi. Phần diễn ngâm tập thơ trong buổi ra mắt
sách do đông đảo giới yêu nghệ thuật
đóng góp: Phạm Đ́nh Cường, Tôn Nữ
Hương B́nh, Lê Phan Lân, Thanh Hằng, Thanh Hà (nay đổi
thành Thái Hà), Lê Văn Anh Cát, Diệu Trang, Hoàng Phúc , Kim Tuấn,
Vơ Anh Tuấn và chính tác giả. Nhà báo Ngô Vương Toại
từ Washington DC và nhà văn Hồ Đ́nh Nghiêm, tŕnh bày những
nhận xét của ḿnh trong phần giới thiệu tác phẩm.
Huế Buồn Chi, dày
122 trang. Mẩu b́a in một bản vẽ màu rất nghệ
thuật của họa sĩ Vơ Đ́nh, do Hồ Đ́nh
Nghiêm tŕnh bày. B́a sau in chân dung thi sĩ chụp bắt bởi
Hoàng Hà. Bốn phụ bản đen trắng cho tập
thơ của hai họa sĩ Đinh Cường, Vơ
Đ́nh (mỗi người 2 bản). Một ca khúc phổ
từ thơ được Lê Văn Thành thực hiện.
Đặc biệt nhất là bài viết dài 8 trang của
nhà văn Hồ Đ́nh Nghiêm, thay lời bạt: Tạ Lỗi
Cùng Huế. Nh́n chung những người cùng đứng
trong phần đất Huế Buồn Chi, đều có cội
rễ hoặc dan díu đậm đà (con rể, trường
hợp Đinh Cường) với Huế. Có thể nói
đây là một tác phẩm Huế rặt (theo giọng Quảng
Nam của tôi).
Trước khi trích vài bài
thơ đọc chơi, chúng ta thử xem Hồ Đ́nh
Nghiêm viết những ǵ trong Tạ Lỗi Cùng Huế:
… “Ông
ấy là Hoàng Xuân Sơn ? Hoàng Xuân Sơn nào vậy ? Cái ông
đang ôm đàn ngồi hát đó có ‘bà con’ chi với một
ông chuyên làm thơ ?Nhân gian này vẫn thường nghe, vẫn
luôn thấy đời nghiêng. Nhưng nhân gian cách trở ở
cái Mộng Lệ An (Montréal, chú thích của người
viết) nhỏ bé này có khi nào
chứa tới một lúc những hai ông họ Hoàng trùng tên
trùng chữ lót phiêu giạt chạy tới xin định
cư ? (điều này có thật, chú thích của người
viết):
Em qua tới bợt em ngồi
tới bờ em đứng
khóc mùi mẫn em…
Không, không, chỉ có một
thôi. Sài G̣n, Hà Nội th́ răng không biết, chứ Huế
mền th́ chỉ độc có một ôn Hoàng Xuân Sơn nó
đó ni. Ôn hát mùi dễ sợ ôn làm thơ cũng hay ác ôn”
Một đoạn khác:
… “Họ
nói tới những người viết gốc Huế,
đếm không xuể trên đầu mấy ngón tay
đưa ra. Và trên những ngón tay ấy có đậu một
cái tên Hoàng Xuân Sơn. Khuất lấp bên trong tường rêu
cổ xưa là trường Cao đẳng Mỹ thuật,
láng giềng cận kề nó là trường Quốc Gia Âm
Nhạc đang có ai ngồi chơi đàn piano thánh thót run
lên những cung bậc trong chiều vắng lặng. Những
chân mây tím, mặt trời xuống núi như c̣n gửi lại
tia lửa bừng cháy đi viền cam trên đỉnh Ngọ
Môn. Tiếng đàn lan man đi vọng dội giữa một
vùng đất ph́ nhiêu lau lách và phượng vĩ và thầu
đâu (sầu đông) và mù u. Và hôm nay đây , lần đầu
tiên nh́n thấy Hoàng Xuân Sơn trên xứ người, tiếng
đàn tịch lặng ấy lại chảy về như
nước cuốn cùng với thú h́nh ảnh của một
Huế thoi thóp, của một Huế biến động,
của một Huế bị kéo phăng đi về phía bên
kia vĩ tuyến của tối tăm, xóa nḥa, xa cách,
đày đọa…”
… “Và cuối cùng, tôi đă
được nh́n thấy ôn, được quen ôn mà không
cần tới sự giới thiệu của Mường
Mán. Ôn hay yên ?
Cặp gương trắng như ḷng yên trắng
Yên lên ngàn có chộ hồn quê ?
…
Tôi yêu biết mấy những câu lục bát của ôn,
như từng yêu Mường Mán, từng yêu Phạm Nhuận,
từng yêu Huỳnh Liễu Ngạn. Những đứa
con Huế thất tung kẻ ở người đi…
…
Nhà thơ họ Hoàng là người nặng ḷng với
Huế. Tôi là kẻ ḷng nặng mà bất tài. Vừa có tài vừa
có ḷng như thế th́ tôi mong Huế Buồn Chi sẽ không
chỉ loanh quanh ở sông Hương núi Ngự mà nó c̣n
bước chân qua đèo Hải Vân để xuôi Nam hay sang
cầu Hiền Lương mà ngược Bắc. Nó không là
‘văn chương miền trung’ mà nó phải là một cái
ǵ hơn thế…”
(Hồ
Đ́nh Nghiêm)
Bài viết của Hồ
Đ́nh Nghiêm thật có duyên. Anh không cần phân tích, trích dẫn
nhiều thơ Hoàng Xuân Sơn. Loanh quanh từ những h́nh
ảnh cận kề với tác giả Huế Buồn Chi,
Hồ Đ́nh Nghiêm đă giới thiệu khuôn mặt
người bạn văn chương của ḿnh một
cách độc đáo. Ngoài ra anh c̣n bày tỏ được
niềm tự hào, hănh diện của mỗi một công dân
Huế, trong đó có anh, một cách kín đáo, tế nhị.
Những đánh giá, ước mong “nó không là văn chương miền Trung, mà nó phải
là một cái ǵ hơn thế”, hoàn toàn chính xác. Thơ của
Hoàng Xuân Sơn không chỉ dành riêng cho những bạn đọc
gốc Huế, mà dành cho tất cả người Việt
Nam, cùng những người yêu thích và nghiên cứu về
văn chương, ngôn ngữ Việt Nam. Nhưng, dĩ
nhiên, gốc Huế trước tiên phải được
dân chính Huế vun đắp, phổ biến kỹ hơn.
Tôi không tin bất kỳ một tổ chức nào thực
hiện những chương tŕnh về Huế, như
đêm nhớ Huế, gặp mặt Huế, có giới
thiệu những tác phẩm từ tâm hồn của những
đứa con cật ruột của ḿnh, mà bỏ sót, không
nhắc đến ông thi sĩ Hoàng Xuân Sơn. Không dám mong
bù đắp những thiếu sót ngớ ngẩn như vậy,
tôi chỉ mời bạn đọc ít câu, ít bài ngăn ngắn
về Huế của Hoàng Xuân Sơn cho ngấm thêm cái
hương vị đất cố đô:
“ Sông Hương chừ trắng
nợ rồi
phủi tay c̣n chút buồn
rơi cuối ḍng”
(thơ đầu tập)
thưa
em chút nắng trên đ̣
tan sông giờ cũng ốm o gầy ṃn”
(nắng
qua đ̣)
“Lâu
lắm không hề nghe thổ âm
Răng, rứa, chừ, mô
cũng lạ dần
giọng treo trên núi hồn
xiêu lạc
giọng bỏ về
nơi chốn tị trần”
(thổ âm)
“Thôi
đừng tắm sông nữa em à
sợ chiều se lạnh
nước ṃn da
sợ trăng ngă xuống
thềm rêu mục
sợ cả đêm hoang gió
thổi nhà”
(thôi đừng)
“nước
chảy đi rồi không lộn lại
mà người đứng
măi ở bờ sông
con đ̣ khẳm nặng
t́nh ni nớ
ḥ thảm, đêm ai mới
lọt ḷng”
(nước chảy)
Ḷng dạ của Hoàng Xuân
Sơn như ḷng của một con đ̣ trên sóng nước
sông Hương. Ḷng con đ̣ đó thật mênh mông, theo
năm tháng đă khẳm nặng những huy hoàng, những
tai ương, vui, buồn của bao kiếp người,
nhưng không ch́m khuất.
“Huế
buồn chi Huế không vui
Huế o ở lại Huế
tui đoạn đành
O đau sương khói một
ḿnh
Tui đi ray rứt Nội
thành tái tê
Huế buồn chi, tội rứa
tề
T́nh xưa nghĩa cũ ngó
về tựa nương
Huế ơi mộng tới
đường trường
Kim Luông Vỹ Dạ ḍng
Hương có c̣n
Trèo t́nh lên núi mà thương
Cỏ cây chất ngất phố
phường ở mô
Huế chừ cách mấy
triệu o
Mưa qua cửa Thượng
chiều co bến Thừa”
(Huế buồn chi)
T́nh thật là t́nh.
Thương thật là thương. Tôi từng là “học tṛ xứ Quảng ra thi…”
và cũng từng khẩn khoản “Xin Huế Một
Người T́nh”, nhưng măi măi vẫn chỉ là: … “chờ mái tóc lưng chừng vai
áo trắng/ chờ nụ cười nghiêng vành nón xa
xăm/ chờ đôi gót ươm hoa lên đường phố/
chờ gió bay sau tà áo lụa thơm” để rồi tiếp
tục năn nỉ: “Em xứ Huế hỡi người
em xứ Huế/ hăy yêu ta như yêu trái nhăn lồng/ hăy yêu ta
như yêu từng viên ngói/ trên nóc nội thành vàng bóng hoàng
hôn…” Cuối cùng vẫn phải tự lừa dối
ḿnh, đem cái tự tôn ra gở thể diện: “Em xứ Huế hỡi người
em xứ Huế/ ta qua đ̣, ta qua hết ḍng sông/ sông bớt
đẹp nếu ta không yêu mến/ các người em gái nhỏ
dễ thương/ xin âu yếm hỏi em điều vẫn
sợ: - làm rể người xứ Huế khó hay không ? ”
(LH- RHĐR, 1974) Thắc mắc từ thời trẻ
thơ của tôi, măi đến nay vẫn chưa có cơ hội
được giải đáp. Muộn rồi. Hết rồi.Tiếc.
Thi phẩm Huế Buồn Chi
không chỉ được tổ chức ra mắt tại
Montréal mà c̣n được vợ chồng dược
sĩ Vơ Thành Tân, một người bạn thâm giao của
Hoàng Xuân Sơn tổ chức tŕnh sách tại nhà hàng Việt
Nam của cựu Dân biểu Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn
Văn Tiết ở thành phố Toronto vào tận
năm…2000. Cùng ra mắt tác phẩm với Sơn, nhà
văn Trang Châu cũng giới thiệu đến bạn
đọc tiếng Việt ở Toronto tập truyện ngắn
D́ Thu của anh. Để hỗ trợ tinh thần bằng
hữu, nhà văn Song Thao, nhà thơ Lưu Nguyễn cùng tôi
vượt đường trường sang tham dự. Buổi
ra mắt sách rơi vào một buổi chiều chủ nhật,
nên sự thành công có phần hạn chế trong cái ấm áp
của những người viết và đọc lẫn
nhau.
Tôi với Hoàng Xuân Sơn,
Song Thao c̣n có dịp trở lại Toronto phát hành sách vào ngày
07 tháng 5 năm 2006 vừa qua. Lần này, Hoàng Xuân Sơn
đi cùng vợ, chị Quách Kim Lân. Thi phẩm mới của
anh là một tập thơ sử dụng thể 6/8 lấy
đúng tên Lục Bát do Thư Ấn Quán của nhà văn Trần
Hoài Thư xuất bản năm 2004. Mẫu b́a do chính Hoàng
Xuân Sơn vẽ và tŕnh bày, in giản dị một màu,
nhưng rất mỹ thuật. Sách dày 166 trang, giấy tốt,
có vân. Chân dung tác giả qua nét phác họa cùa Vivi, từ
năm 1990. Ngoài lời mở rất ngắn gọn của
người chủ trương nhà ấn hành, c̣n có bài giới
thiệu tác giả và tác phẩm của Cao Vị Khanh.
Để cuốn sách được h́nh thành, Trần Hoài
Thư đă phải chia công cùng các bạn: Phạm Văn
Nhàn layout trang ruột, Trần
Quí Thoại (con trai Trần Hoài Thư) góp phụ bản.
Cao Vị Khanh là bút hiệu của ông Vơ Trung Hiền,
cùng định cư tại miền tây đảo Montreal (West
Island) với Sơn. Cao Vị Khanh viết lời bạt
cho Lục Bát Hoàng Xuân Sơn, có lẽ, không những do t́nh bạn,
mà c̣n do sự phân công khá minh bạch của ông đầu
tàu Thư Quán Bản Thảo, Trần Hoài Thư. Bài bạt
của ông Khanh viết theo lối hành văn rất “tân h́nh
thức”. Có rất nhiều ngoặc đơn trong một
câu. Bài viết khá dài, tiêu biểu:
“…Xuống
hàng là xuống hàng. Chấm và hết.Không có hỏi han lôi
thôi. Mà cũng không có phân trần lếch thếch. (thơ
chớ bộ nhân t́nh nhân nghĩa ǵ sao mà ỉ ôi…)
Xuống
hàng là xuống hàng. Giống y cái ngă ba đường đời
vậy đó. Tới đó là phăi tan-hàng-cố-gắng. Tới
đó là phải anh-đường-anh-tôi-đường-tôi.
Tới đó là người-lên-ngựa-kẻ-chia-bào. Có níu
có kéo có tŕ th́ cũng có cưỡng lại được
đâu. Th́ c̣n hỏi tại sao làm chi cho thêm ngớ ngẩn.
Mà có hỏi th́ cũng có ai trả lời đâu. Thiên hà ngôn
tại !
Tới
đó th́ xuống hàng vậy đó. Mà điều có thấy
không. Tự dưng nghe như thảm thiết hơn khi lời
thơ bị bứt rời ra, đứt ĺa ra. Và h́nh ảnh
không c̣n là một bức tranh tĩnh (chết) nữa mà trở
thành một hoạt cảnh (sống, động) hẳn
hoi. Mà tôi cánh bướm tà dương chập chờn.
Thơ đi một hơi một mạch nghĩa là vẫn
c̣n đó, sức sống. Sự liên lạc của chữ
nghĩa mang trong nó h́nh ảnh của gắn bó (dù le lói) ?
Như vậy là câu thơ không chuyển được hết
cái ư nghĩa của thôi-đành, của đành-vậy của
cũng-đành, của đầu-hàng, của chịu-trận,
của hết-thuốc-chữa…nghĩa là của tuyệt
vọng
Mà tôi cánh bướm tà
dương
chập chờn
(hai chữ ‘chập chờn’
rớt xuống hàng dưới h́nh như đôi cánh mỏi
đă rụng xuống chiều nào, thấy không)…
H́nh như ông Cao Vị Khanh
đang luận về kỹ thuật xuống hàng trong lục
bát Hoàng Xuân Sơn. Và cứ thế, ông viết một mạch
rất liền hơi, khó có thể cắt xén để
trích đoạn, mà không bỏ sót ư tưởng nhận
định của ông, nên xin ngừng trích.
Hoàng Xuân Sơn là một nhà
thơ ở cùng lứa tuổi với tôi. Anh chỉ chậm
hơn tôi một năm khi đến với cuộc đời.
Và đến với thơ có lẽ chỉ sau tôi vài ba
năm, nhưng anh có vẻ trẻ trung măi, phơi phới
măi. Anh luôn luôn theo kịp trào lưu của cách tân, đổi
mới. Tôi trụ lại trong cái có tuổi của vần
điệu, trong khi anh phát huy nhiều cái mới, ngay cả
cái h́nh thức ở câu thơ lục bát dân tộc. Viết
nhiều ở tạp chí Thơ, anh là bằng hữu thân
thiết của các tay kiện tướng Khế Iêm, Đỗ
KH, Chân Phương, Đinh Linh…trong phong trào làm mới thi
ca, rất được tán thưởng tại hải
ngoại. Bài dưới đây được Hoàng Xuân
Sơn kư Sử Mặc đăng trên tạp chí Thơ số
mùa xuân 2005:
“Một tị nữa thôi
Mà: chừa chỗ cho nhau ngồi
với không
kẻo nay mai nỏ kịp
bồng
bế nhau lánh đại nạn
hồng hà dâng
lũ tràn tuôn ngập ngụa
dần
này nữa là trôi tất ngần
rong rêu
quỷ mị nhân sinh bọt
bèo
trên rừng dưới rú cọp
beo cáo cầy
hàng hàng lớp lớp banh
thây
rủa xả nhiếc móc bầy
hầy mánh mung
thời những kẻ chung
đụng chung
t́nh chung lưng đấu cật phừng phừng
cơn
phong ba lư sự dập dồn
không kịp nh́n mặt cái con
mẹ dài như tiếng thở, c̣n đâu đây
lâm bồn trên lá trên
cây
trên cuống thịt ôi vữa, ngày tàn thu
rối nhích tí nữa cho cù
rũ lộn kiếp mai đánh đu ̣ è”
Bài thơ có tên Nhích Ra. V́ là lục
bát nên vần điệu đủ đầy, chỉ
hơi khác ở bài này ông Sử Mặc ít xuống ḍng từ
một chữ, hai chữ hay ba bốn chữ. Và cũng
tương đối dễ nắm bắt ư tưởng
tác giả. Cái mới ở đây là sự sử dụng
chữ, đồng thời phảng phất ít nhiều chất
thơ Bút Tre. Bên cạnh khả năng làm mới thi ca,
Hoàng Xuân Sơn c̣n có một sức sáng tác ít có ai theo kịp.
Hăy đọc tất cả tạp chí Việt ngữ tại
hải ngoại để kiểm chứng điều này.
Với
đời thường, nhà thơ Hoàng Xuân Sơn rất mực
dễ mến. Có lẽ không khi nào anh làm phiền ḷng ai. Bản
tính hiền ḥa, thích giao du bè bạn, khá dễ bị níu kéo,
cù rủ trong những sinh
hoạt
có tính cách văn nghệ, văn học. Vóc người
trung b́nh mẫu Việt Nam. Mặt mũi có thể liệt
vào thành phần đẹp trai, dễ dụ phái đẹp.
Nhất là cách ăn nói chỉ kém nhà thơ Du Tử Lê và nhà
thơ Hà Nguyên Thạch một chút ít. Yêu và kính vợ ngang tầm
cỡ nhạc sĩ Từ Công Phụng.
Trong những thập niên
80, 90 sinh hoạt nghệ thuật văn hóa tại Montréal rất
khởi sắc, phần lớn nhờ vào sự giao t́nh tốt
đẹp, cởi mở giữa những anh em cầm bút.
Thời đó, Hoàng Xuân Sơn cũng như chúng tôi, những
Nguyễn Đông Ngạc, Nguyễn Khắc Ngữ, Hoàng
Phúc, Nguyễn Hữu Chung, Đỗ Quư Toàn, Hồ Đ́nh
Nghiêm, Luân Hoán, Song Thao, Lưu Nguyễn, Nguyễn Minh Đức,
Trang Châu, Lê Quang Xuân, Vũ Ngọc Hiến,Vivi, Phạm Nhuận…hầu
như tháng nào cũng có gặp nhau một đôi lần. Những
bữa cà phê, những bữa rượu, không quá đà cả
đêm nhưng vô cùng thoải mái. Hoàng Xuân Sơn mải mê
đàn hát. Những ca khúc tuyệt vời của Trịnh
Công Sơn được anh cho bè bạn nghe lại cùng tiếng
guitar thùng, làm sống lại
một thời đă qua. Giọng Sơn thích hợp với
loại nhạc thính pḥng. Nhiều lúc anh như ca sĩ Tuấn
Ngọc, lắng ḷng, nhắm mắt để tự theo
dơi, tự thưởng thức nguồn âm thanh từ tim, từ
bụng, từ cổ ḿnh loan ra, chan ḥa chung quanh.
Ngày gia đ́nh Nghiêu Đề
sang thăm, tôi đưa lên nhà anh. Sơn cũng rất
thân với vợ chồng Nghiêu Đề, thân đến
độ anh từng mang giúp một số tranh sơn dầu
trong chuyến di cư của ḿnh. Ngày hai ông bà họa sĩ
Bé Kư, Hồ Thành Đức qua, cũng không quên ghé tư gia
Hoàng Xuân Sơn. Những buổi khoản đăi bè bạn
chị Kim Lân lo rất chu đáo và rất ngon miệng. Tôi
với ông bà Sơn, Lân có giao t́nh chậm hơn hai ông bạn
họa sĩ trên, nhưng cặp vợ chồng dễ
thương này cho gia đ́nh chúng tôi nhiều kỷ niệm
quí, khó quên. Trong cả hai dịp làm lễ vu qui cho hai cô con
gái, vợ chồng Sơn, Lân đến với chúng tôi
như một thành viên của gia đ́nh nhà gái. Ngoài chuyện
tiếp chuyện cùng nhà trai, cúng dường trước
bàn thờ tổ tiên, Hoàng Xuân Sơn c̣n là người
điều khiển chương tŕnh trong cả hai đêm
dạ tiệc cưới. Tôi nghĩ, nếu ở Hoa Kỳ,
nếu có duyên, có cơ hội Hoàng Xuân Sơn sẽ là một
MC rất có hạng trong những
chương tŕnh tŕnh diễn âm nhạc. Tài hoa và cởi mở
nhưng ông bạn thi sĩ của tôi h́nh như không
được nhiều thong dong.
T́nh yêu thương vợ con không màu mè
phơi bày lên giấy trắng mực đen như tôi,
nhưng đậm đà, rất mực, nhiều lúc bè bạn
cũng phải cúi đầu, suy ngẫm.
Chẳng phải “bánh ít trao đi bánh ch́ trao lại”,
tôi làm đôi bài thơ tặng Hoàng Xuân Sơn tự nhiên,
như đă tặng rất nhiều bè bạn khác. Trong t́nh
bằng hữu, chúng tôi khen thẹn, khi tự khen: chúng tôi đều
là những người có một tấm ḷng . Những câu
thơ tán tụng vu vơ không là ǵ cả, có chăng là một
niềm vui t́m thấy ngay trong lúc viết. Từ bài Phong Thổ
của Sơn đề tặng, tôi viết mấy câu lục
bát, không dấu kín được sự gượng ép:
“Trong
phong thổ trắng thơ người
Hơi buồn nở trắng chỗ ngồi quạnh
hiu
Ḷng ta đâu chỉ bấy nhiêu
Hâm thơ thế rượu cùng liều như nhau”
(LH-NTCKMX)
Và trong Giữ Riêng Vài Nét
Như Là, nột bài thơ dài nhiều đoạn, mỗi đoạn
là một khuôn mặt, in trong tập Luân Hoán-Một Đời
Thơ, về Hoàng Xuân Sơn, tôi vẽ thành ngũ ngôn:
“Ṭ
ṃ tra tự điển
Sử Mặc nghĩa thế nào
chắc có nhiều khúc mắc ?
ẩn bóng dáng hồng đào ?
ngón đàn bay hương rượu
giọng hát trầm ngọt ngào
đă tới chưa Viễn Phố
áo phơi thơm hàng rào”
(LH- LHMĐT)
Có cố lắm, thơ vẽ
bè bạn của tôi cũng chỉ có thế. Nhưng cái
t́nh của tôi chắc chắn phải nặng cân hơn. “Lực bất ṭng tâm” mà. Nhiều
câu “nói chữ” thật thú vị. Ngoài bài Phong Thổ, Hoàng
Xuân Sơn c̣n tặng tôi 4 câu lục bát, có phần trực
tiếp hơn:
“Phước
Ninh quê ở nơi nào
Áo quần giặt giũ đă bao lâu rồi
T́nh là nắng ấm
hong phơi
C̣n nghe hương ủ bồi
hồi dáng thơ”
(Hoàng Xuân Sơn)
Không giải thích thơ, tôi
chỉ nêu ra và cắt nghĩa như chú thích điển
tích, dù ở đây chẳng có điển tích ǵ. Phước
Ninh là địa danh nơi vợ tôi ra đời, thuộc
Quận Nhất thành phố Đà Nẵng, Phước Ninh
nằm tiếp cận với Hải Châu. Nhà ba mẹ vợ tôi nằm giữa
hai con đường Phan Thanh Giản (nay là Hoàng Văn Thụ)
và Lê Đ́nh Dương. Áo quần
giặt giũ… do một bài thơ của tôi viết có
tên Giặt Áo Quần Cho Vợ. Đây là một bài thơ
được khá nhiều người biết đến,
trong cả hai đánh giá khen lẫn chê. Nhà văn Nguyễn
Thị Hoàng Bắc một lần gặp vợ chồng
chúng tôi đă đùa: “ Anh giặt áo quần trắng sạch
chưa mà đi chơi đây ?” (câu này chỉ viết lại
đại ư của chị Bắc, không đúng hẳn
nguyên “bổn”).
Đó, các bạn xem, những
niềm vui của những người làm thơ chúng tôi,
đôi lúc chỉ đơn giản
như đang giỡn vậy thôi. Trong cuộc sống mịt
mù xa tổ quốc, thèm gặp được một
người bạn để được nói đôi câu
tầm thường, quen thuộc nhất, đại loại:
“Ê Sơn, khỏe không ? Sao tóc
tai coi bộ đă đến mùa đông quá vậy ?” hoặc “A anh Hoán, lâu ni trên mạng có ǵ mới
không ôn?” Chuyện không khó, nhưng
vẫn khó thực hiện được. Thêm vào đó, cuộc
rượt đuổi của vật chất theo mức
tiến kỹ thuật, chúng tôi, dù không muốn cũng phải
theo đời cho phải phép. Th́ giờ nghĩ về nhau
dễ có bao nhiêu. Đọc được bài viết của
một bạn trên báo, biết thằng này c̣n ok, mừng cho
nó. Như sáng hôm nay Đinh Cường vừa cho biết
HoàngXuân Sơn đang đăng hồi kư trên báo Phố
Văn, như vậy Sơn vẫn ổn, bàn tay đánh
đàn vẫn c̣n ngồi gơ phím chữ được, không
bi quan than thở như hồi tháng 5 vừa qua. Hoan hô Hoàng
Xuân Sơn, người con của xứ Huế Buồn Chi
lạ.
Montréal, 20-10-2006
Ghi
thêm:
1/ Những bài viết trong
hai tập Dựa Hơi Bè Bạn, phần nhiều sau khi bản
nháp hoàn tất, tôi gởi đến người cho tôi dựa
hơi đọc trước, để có thể bổ túc
thêm một đôi điều tôi chưa kịp nhớ ra.
Hoàng Xuân Sơn, sau khi đọc gởi lại cho tôi, với
lời nhắc, nguyên văn của anh:
(**)Anh Luân Hoán quên th́ để
tôi nhắc : Lúc anh gọi điện thoại, bị anh
xưng là Lê Ngọc Châu, thành thử tôi nghĩ là anh gọi
lầm số . Sau đó biết anh là nhà thơ Luân Hoán, một
thi sĩ mà tôi rất ngưỡng mộ tự hồi c̣n
tập tễnh thơ thẩn, tôi vội vă phóng xe lên nhà anh
. . .tạ lỗi . Sau đó, bọn ḿnh làm một chầu
phở/càphê sơ giao tại Phở Bắc đường
Victoria . Và : “Rồi Từ
Đó Hai Đứa Ḿnh Quen Nhau . . .” - HXS
2/
Tôi cũng có quen với người em trai của Sơn,
anh Hoàng Xuân Giang. Người bạn này to con lớn xác hơn
ông anh. Xét về dung mạo, cả hai anh em đều xuất
sắc như nhau. Bản tính cả hai đều vui vẻ,
hoạt bát, dễ ḥa đồng cùng đám đông. H́nh như
ngoài đời, Hoàng Xuân Giang lấn hơn ông anh trong mục
sưu tập bạn gái.
Hoàng Xuân Giang sinh năm 1946 tại
Huế. Là cựu học sinh các trường Lê Lợi,
Providence (Huế), đại học Văn Khoa Sài G̣n. Anh bắt
đầu làm thơ, viết nhạc sau năm 1975. Rất
có thể v́ có tên trong danh sách biên tập viên của một
tạp chí (Đất Việt) đang bị chống đối,
nên những sáng tác của anh đă không có nhiều cơ hội
phổ biến. Năm 1994 nhà xuất bản Âm Nhạc ở
trong nước in cho anh một tập nhạc có tên Hăy Nh́n
Tôi Như Thế, gồm các ca khúc: Lời Xưa Em Khấn
Nguyện, Để Ḷng Thương Nhớ Ai, Đôi Khi, Hăy
Nh́n Tôi Như Thế, Cho Ta Hương Phấn Nồng, Em Đă
Quên T́nh Ai, Hương Đêm, Nỗi Buồn Chưa Quên, Trăm
Năm Tiếng Cười, Quê Nhà Xa Xăm, Phai Theo Những
Ṿng Không, Phai Nhạt Giữa Đất Trời, Về
Trong Mênh Mông, Ngày Sau Sẽ Nhớ…Quên, Yêu Em Tóc Ngắn, Chiều
Ni Ngoài Nớ (thơ Nguyễn Thị Hoàng), Lời Vô
Thường (thơ Huỳnh Liễu Ngạn), Nói Với Mùa
Thu (thơ Liên Hương), Tập
nhạc do chính anh vẽ b́a và nhà thơ Lữ Quỳnh tŕnh
bày. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một người bạn
thân của cả hai anh em, đă viết lời vào tập
cho Giang:
“Ai
đi qua cuộc đời mà không tiếc thương.
Đời sống th́ dài mà đời ta th́ ngắn. Có những
khi ta ngồi thẩn thờ nh́n ngắm cuộc đời
và tự hỏi: đời ở đâu và ta ở đâu.
Hoàng Xuân Giang viết nhạc
như một cách nh́n ngắm cuộc đời để
rồi bày tỏ ḷng ḿnh. Nhưng cuộc đời im lặng
xa xôi, và Giang hốt hoảng, trong phút giây, muốn níu kéo một
điều ǵ vô h́nh mà lẽ ra rất thực. Giang viết
và nói “Hăy Nh́n Tôi Như Thế”. Hăy nh́n tôi như thế v́
đời lăng quên tôi, v́ tôi nhỏ bé, v́ tôi sẽ biến mất
trước khi cuộc đời vội vă nhớ lại
như một thoáng ăn năn vô vị.
Những ǵ Hoàng Xuân Giang muốn
nói th́ gần như đă nói được trong những
ca khúc của ḿnh. Nói mà không nói bởi v́ cái lẽ vô ngôn
trong những xô bồ ngôn ngữ làm sao Đời chia xẻ
hết được…”
(Trịnh Công Sơn, Sài G̣n, tháng 4-1994)
Tôi
có ghé đến chơi nhà anh nhiều lần. Vợ anh, chị
Mai, rất vui tính. Cả hai vợ chồng đều thích
ca hát. Không biết có phải nhờ nguồn âm thanh ngọt
ngào vang măi trong căn nhà hay không, mà anh chị Giang Mai sinh
được một cô con gái rất xinh đẹp.
Giữa
cuộc sống đang phơi phới cùng gia đ́nh, cùng bè
bạn, Hoàng Xuân Giang vội vă bỏ đi xa. Cái chết v́
bạo bệnh của anh tại thành phố Montréal thật
bất ngờ. Hầu hết anh em bạn văn nghệ
đều xúc động, ngậm ngùi.
Luân Hoán