Trần Trung Đạo

Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười

Và Những Bài Chủ Đề Mẹ

 

Hà Khánh Quân

 

    

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mẹ, một đề tài thường đem lại sự thành công, trong nhiều bộ môn sáng tác nghệ thuật. Riêng trong lănh vực thi ca, không kể những cây bút thành danh, những người có duyên với thơ, phần nhiều cũng đă viết được những bài về mẹ từ xuất sắc đến đọc được. Phải công nhận một số thơ thuộc chủ đề này, đôi khi có sự lặp lại ngôn từ, h́nh ảnh hoặc cả cách diễn đạt. Tuy vậy, người đọc cũng ít khi gặp sự nhàm chán như ở một số đề tài khác. Điều này có lẽ nhờ t́nh thương yêu sẵn có trong ḷng người đọc. Đọc thơ viết về mẹ có lúc như là kiểm chứng ḷng ḿnh, có lúc như là ôn lại, sống với những kỷ niệm, những h́nh ảnh, khó phai nḥa trong tâm tưởng. Tôi đă từng bâng khuâng với Nắng Mới của Lưu Trọng Lư, đă từng thao thức với Ḷng Mẹ của Nguyễn Bính, đă từng trôi nổi với Lời Ru Của Mẹ của Xuân Quỳnh. Và cũng đă từng ứa nước mắt với Mất Mẹ của Xuân Tâm.

     Năm xưa tôi c̣n nhỏ
     Mẹ tôi đă qua đời
     Lần đầu tiên tôi hiểu
     Thân phận trẻ mồ côi.

     Quanh tôi ai cũng khóc
     Im lặng tôi sầu thôi
     Để ḍng nước mắt chảy
     Là bớt khổ đi rồi...

     Hoàng hôn phủ trên mộ
     Chuông chùa nhẹ rơi rơi
     Tôi thấy tôi mất mẹ
     Mất cả một bầu trời.

                    (Lời Chim Non – Xuân Tâm)

 

     Bạn thấy rất thân quen với bài ngũ ngôn đơn giản, tuyệt vời trên? Vâng đúng vậy, bài thơ không xa lạ với số đông chúng ta. Xin cảm ơn thầy Nhất Hạnh và đoản văn Bông Hồng Cài Áo thầy viết vào năm 1962.

 

     Trong đoản văn này, có lẽ v́ quá xúc động khi đọc thơ, khi thả ḷng theo bút, thầy Nhất Hạnh đă quên ghi xuất xứ, tên tác giả bài thơ. Nhưng nhờ vào đoản văn của thầy, bài thơ của Xuân Tâm được phổ biến rộng răi hơn. Rất hy vọng, trong tương lai, nếu Bông Hồng Cài Áo c̣n tái bản, xin những người có ḷng, kính tưởng người mẹ già của nhà thơ Xuân Tâm, không hà tiện một đôi ḍng ghi chú cho thêm phần lịch sự, tri thức.

 

     Thơ Mất Mẹ của Xuân Tâm, một tác giả đất Quảng Nam, đă là chuyện trong quá khứ. Gần đây, tại hải ngoại cũng có một tác giả khác của xứ Quảng Nam lại viết được một bài về Mẹ rất thành công. Bài thơ tạo được ấn tượng tốt ngay ở cái tên bài: Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười.

 

     Trần Trung Đạo, tác giả của một khao khát, ước muốn thần kỳ. Anh là nhà thơ, nhà văn, là tác giả nhiều bài nhận định về chính trị và văn học rất già tay. Bút danh của anh không những nổi bật tại hải ngoại, trong nước giới trẻ, giới chính trị trí thức cùng t́m đọc với xao xuyến đồng cảm, hoặc hằn học tức tối, cụ thể như ông Trần Chung Ngọc.

 

     Theo đường ṃn, trước khi lang thang vào tác phẩm, tôi xin mở hồ sơ lư lịch của người viết Trần Trung Đạo:

     Sinh tại Duy Xuyên Quảng Nam vào năm 1955, Trần Trung Đạo tên thật là Trần Văn Nhơn. Những tư liệu này được hai nhà thơ Lưu Nguyễn và Phan Xuân Sinh cho giống nhau, gần cùng một lúc. Chưa thấy ghi trong Tác Giả Việt Nam của Lê Bảo Hoàng hoặc nhiều trang điện toán có thông tin, đăng tác phẩm của tác giả như: thewriterspost.net, vnthuquan.net, xuquang.com, nguoivietboston.com, trantrungdao.com.

 

     Trần Trung Đạo có vóc dáng rất Việt Nam, rất thư sinh nho nhă. Anh đă từng có mặt tại trung học Trần Quư Cáp Hội An, đại học Vạn Hạnh, đại học Luật Khoa Sài G̣n. Rồi tốt nghiệp kỹ sư điện toán tại Wentworth Institute of Technology. Trần Trung Đạo đến Hoa Kỳ bằng phương tiện phổ thông: vượt biên đường biển vào năm 1981. Sau thời gian ở đảo Palawan, anh hiện sống cùng gia đ́nh tại Boston Massachusettes. Nghề tay phải hiện nay: điều hành hệ thống dữ kiện cho một hăng đầu tư tài chánh ngay tại nơi định cư. Trần Trung Đạo bắt đầu sinh hoạt văn học từ cuối thập niên 80. Ngoài bài vở đóng góp trên các báo đất, báo mạng, anh đă có các tác phẩm bày bán:

     - Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười (thơ, in 1993 tái bản 1996)

     - Thao Thức (thơ, 1997)

     - Thơ Trần Trung Đạo (thơ, 2003)

     - Giấc Mơ Việt Nam (văn, 2003)

     - Tâm Bút (văn, 2005, được chính trang web TTĐ giới thiệu: Gồm 23 bài tâm bút và tiểu luận liên quan đến các vấn đề của đất nước mà mỗi chúng ta hằng ưu tư, trong đó có Suy Nghĩ Tháng Tư, Ba Mươi Năm Nh́n Lại Chiến Tranh, Sự Im Lặng Của Biển, Tuổi Trẻ Và Lư Tưởng Phụng Sự Xă Hội, Con Có Một Tổ Quốc, Số Phận Một Loài Chim, Nh́n Tấm Bia Tưởng Niệm Ở Galang Suy Nghĩ Về Ḥa Giải v.v… Ngoài ra, Tâm bút Trần Trung Đạo c̣n gồm những bài thuyết tŕnh của tác giả về các chủ đề văn hóa, tuổi trẻ và nhân quyền tại các cộng đồng, hội nghị, đại học và các trại hè thanh niên trên nước Mỹ)

     - Tiểu Luận (văn, 2009. Nguyên văn giới thiệu trên web TTĐ: Tuyển tập dày hơn 300 trang, bao gồm những tiểu luận chọn lọc như Khám nghiệm một “Hồn Ma”, Sông Gianh chảy giữa ḷng Hà Nội, Tuổi trẻ Việt Nam học lịch sử để làm lịch sử, Trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam, Hẹn một ngày giành lại Hoàng Sa, thảo luận về các vấn đề nóng bỏng của đất nước và đang được người Việt trong cũng như ngoài nước quan tâm nhất. Ngoài ra, tập tiểu luận c̣n có những bài góp ư về các hồi kư gây nhiều chú ư của một số nhà văn trong nước, đă qua đời hay c̣n sống như Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc v.v...)

 

     Sức viết và thành phẩm đa dạng trong nhiều bộ môn sáng tác của Trần Trung Đạo thật đáng ngưỡng mộ. Nhưng nghiêm chỉnh với cuộc chơi Theo Gót Thơ, và như đă nói trên, tôi xin đến với Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười cùng một vài bài thơ khác cùng một chủ đề Mẹ.

 

     Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười đă được sự đồng cảm của nhạc sĩ Vơ Tá Hân. Bàn tay cầm đàn này, đă thả ra những nốt nhạc cho một số tiếng hát Bảo Yến, Hà Lan Phương, Thanh Thúy, Gia Huy, Thế Sơn... đưa thơ của Trần Trung Đạo đến giới thưởng ngoạn. Bài thơ có nội dung:

 

     Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người

     Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
   
 Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
     Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

     Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
     Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
     Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
     Trắng cả ḷng con lúc nghĩ về

     Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
     Bên đời gió tạt với mưa tuôn
     Con đi góp lá ngh́n phương lại
     Đốt lửa cho đời tan khói sương

     Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
     Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
     Mẹ xa xôi quá làm sao vói
     Biết đến bao giờ trông thấy nhau

     Đừng khóc mẹ ơi hăy ráng chờ
     Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
     Đau thương con viết vào trong lá
     Hơi ấm con t́m trong giấc mơ

     Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
     Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
     Ví mà tôi đổi thời gian được
     Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

     Với thể loại bảy chữ, giàu âm điệu. Hơi thơ là một ḍng chảy man mác buồn, mang những tiếng thỏ thẻ tâm sự của một người con xa nhà gởi về mẹ già. Trần Trung Đạo không nhắc đến Mẹ Việt Nam, nhưng qua thơ, qua h́nh ảnh và những chân t́nh, chúng ta nhận ra điều đó. Đây là một ưu điểm giúp bài thơ thu hút được nhiều đồng cảm, chia xẻ.

 

     Trần Trung Đạo không phải nhờ đến sự khôn khéo. Anh đă dùng chân t́nh trong yêu thương, trong nhớ nhung có thật của ḿnh, để viết được những câu, dùng được những chữ, mà ai đọc vào cũng tưởng như chính ḿnh đă viết ra, đă nói lên cùng với mẹ. Những nghĩa vụ cao cả của người mẹ, cùng những nỗi truân chuyên trong đời thường của nhiều bà mẹ đều không cần để trưng ra. Đó là cái đặc biệt, giúp bài thơ không đi vào vết ṃn của nhiều bài thơ, ca ngợi chung chung về một người mẹ.

 

     Để hoàn thành một bài viết có vần trở thành một bài thơ, h́nh như thường phải có:

     - ư, hồn

     - từ ngữ, nhạc điệu

     - h́nh ảnh, màu sắc

 

     Ư, hồn của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười chính là t́nh cảm, sự thương nhớ. Như đă nói, Trần Trung Đạo dùng cái t́nh của ḿnh, cái tâm của ḿnh để ướp, để bón vào câu chữ, nên mỗi ḍng anh viết đều dính liền hơi thở của anh, hơi thở của chính người mẹ anh đang nhớ thương, chuyện văn.

 

     Chữ dùng của Trần Trung Đạo không mới, nếu không muốn nói là cũ: lặng người, lặng thề, sơn khê, màu tang trắng, thiên thu... Tuy vậy sự sắp xếp đúng chỗ và thích hợp đă không hề cho thấy câu nào sáo cũ. Trái lại chúng mang được nét giản dị, b́nh thường và trung trực giữa t́nh mẹ con trong đời thường. Sự đơn giản này chính là cây cầu để mọi tŕnh độ bạn đọc đều đến được với thơ anh một cách chân t́nh, lư thú.

 

     Về h́nh ảnh cũng na ná như ngôn từ. Phong phú nhưng thông dụng, thường gặp.

     Mọi bài thơ đều cần có đoạn mở đầu gây được ấn tượng tốt với người đọc. Tôi thật sự ngưỡng mộ Trần Trung Đạo, ở cách trưng ra h́nh ảnh thật đẹp để chuyển vận tâm sự của ḿnh:

 

     “Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người

      tiếng ai như tiếng lá thu rơi”

 

     Chúng ta có thể h́nh dung thật rơ những diễn biến của một bi kịch câm:

     Có tiếng chuông điện thoại, người con bắt máy lên và liền ngay đó lặng người đi v́ bất ngờ, v́ sửng sốt. Vài giây cho nghi vấn tiếp theo “tiếng ai...” chính là nỗi nghẹn ngào chợt đến trong ḷng người con. Anh không lạ và nhận ra ngay hơi thở, giọng nói quen thuộc, nhưng gắng vờ đi vài giây để cho ḷng ḿnh bớt xúc động. Tiếng nói bên kia đầu dây, nhẹ nhàng quá. Nó rung lên như âm vang của một chiếc lá rụng. Chiếc lá đang ở thời kỳ vàng úa của mùa thu, của một kiếp đời sắp qua. Diễn tả, so sánh giọng nói ṃn yếu của mẹ bằng cái động của một chiếc lá mùa thu rơi, quả thật là một h́nh ảnh đẹp. H́nh ảnh này Trần Trung Đạo đă lượm được trong tích tắc xuất thần.

 

     Tiếp liền h́nh ảnh gợi mở là những thỏ thẻ gói trọn những nét dễ thương, tŕu mến, qua hai chữ rất b́nh thường “mẹ nhỉ”. Tấm ḷng người con vừa kịp mở ra với chân t́nh và thực tế:

 

     chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi”

     H́nh ảnh trở thành là hơi thở của bài thơ. Trần Trung Đạo thật có hoa tay trong kỹ thuật này:

     Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
     Trắng cả ḷng con lúc nghĩ về

     Sự so sánh tưởng như chệnh choạc nhưng không. Màu trắng tóc mẹ chính là cái bao la của tuổi đời. Một sự giàu có buồn nhiều hơn vui. Và tác giả cũng không quên vẽ ra ngay nét bi quan, gọn nhẹ trong một từ “tang”. Cái bát ngát này cũng là cái vô cùng thương nhớ kính yêu trong ḷng nhà thơ. H́nh ảnh trắng cả ḷng c̣n nói lên sự thao thức lo lắng của người con trước buổi xế chiều của mẹ. Dùng một h́nh ảnh cụ thể để mở ra một h́nh ảnh trừu tượng không phải lúc nào cũng có thể linh động, cân xứng như tay nghề Trần Trung Đạo. Nếu không có chân tâm đích thực, không có hồn thơ dẫn dắt, khó có thể viết được hai câu trên.

 

     Bốn câu tiếp vẫn là những ḍng chứa đầy h́nh ảnh đẹp. Với một người đang về chiều, c̣n phải bị những nhớ nhung, đau thương vây phủ, chắc khó có chọn lựa nào hơn là ngồi ôn lại những tiếc tưởng, thương nhớ. Khuôn mặt đứa con thân yêu đă ngàn trùng xa, chính là nỗi buồn mà người mẹ ôn tới ôn lui trong trí nhớ, trong trái tim. Cử chỉ tâm tư này như những mũi đan cho nỗi buồn ngày một rộng lớn thêm. Tôi nghĩ, chủ yếu của bài thơ là t́nh mẹ con, nên tác giả đă chọn số-từ đơn vị “một” để đứng trước nỗi buồn. (một nỗi buồn). Thật ra trong cuộc sống nỗi buồn vốn phong phú hơn niềm vui. Nếu số-từ “một” được thay mạo-từ “những”, để vẽ ra h́nh ảnh người mẹ ngồi đan kết những mẩu buồn trong đời lại với nhau, vừa thương nhớ đến con cũng rất đẹp.

 

     Trong đoạn đầu, tiếng nói của mẹ được ví như tiếng lá mùa thu rụng đă tuyệt vời. Ở đoạn bốn, tiếng mẹ lại được h́nh dung là một tiếng nói trong giấc chiêm bao càng sắc sảo hơn. Bởi ngoài h́nh ảnh đẹp c̣n tỏa rộng nỗi ngậm ngùi đến vô cùng. Động từ “vói” (miền Bắc dùng “với”) nằm cuối câu ba đoạn này, cũng rất thần t́nh. Vói là vươn đến một h́nh tượng trước mắt, không quá xa, nhưng khó chạm vào. Ở đây khoảng cách hai mẹ con vốn thật gần trong t́nh cảm nhớ thương, nhưng lại vô cùng xa cách về phương diện địa lư.

 

     Thơ không để giải thích. Tôi đă có ít nhiều lẩm cẩm. Dù sao cũng xin phép được vớ vẩn thêm vài ḍng nữa: Dùng mạng sống của ḿnh, hy sinh hết cả ngàn năm của thiên hạ, để được thấy lại nét cười của mẹ ḿnh, là một ư niệm đáng yêu. Bài thơ ngợi ca t́nh mẫu tử của Trần Trung Đạo là một bài thơ hay. Nó mang đến sự vừa ḷng cho người viết lẫn người đọc. Với tác giả, anh đă đệ tŕnh lên đấng sinh thành ḷng thương yêu kính trọng vô biên trong sự chân thật. Với bạn đọc, t́m gặp được những xúc động, những suy nghĩ về t́nh cảm bản thân với phụ mẫu. Được chia xẻ những cảm nhận về mẹ thật không ǵ ấm ḷng, b́nh tâm hơn.

 

     Ngoài Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, Trần Trung Đạo c̣n viết nhiều bài khác để ngợi ca trái tim người mẹ. Có thể kể: Chuyện Đời Mẹ, Mỗi Mùa Xuân Thêm Một Lần Dối Mẹ, Lời Trối Trăn Của Mẹ, Góc Xưa Nơi Mẹ Vẫn Ngồi, Mẹ Là Thơ Nên Đất Nước Sẽ Hồi Sinh, Thưa Mẹ Chúng Con Đi, Bà Mẹ Điên...

 

     Tôi chỉ dựa vào từ Mẹ xuất hiện đề bài để liệt kê, nên chắc chắn c̣n thiếu sót nhiều. Tôi cũng khó dựa vào mỗi bài để ba hoa hoặc trích dẫn tất cả. Chỉ xin được nêu gọn nhẹ nội dung ở mỗi bài viết cùng trích dẫn một số câu tiêu biểu.

 

     Chuyện Đời Mẹ là tâm cảm của một gia đ́nh nghèo khó, nhiều khổ đau. Một người cha góa vợ sớm, không tục huyền. Một đứa con chiụ tang mẹ khi chưa tṛn một tháng tuổi. Hạnh phúc đáng trân trọng ở đây là sự thương nhớ của người cha, sự t́m hiểu về mẹ của người con. Nhân vật Mẹ được nhắc lại, kể ra, với một kỹ thuật viết khéo léo, không rườm rà. Tạo những nét vẽ phụ để làm nổi h́nh ảnh chính là chủ yếu và thành công của tác giả. Bài thơ với ngôn từ đơn giản nhưng giàu h́nh ảnh. Sự thương tiếc ngậm ngùi được nuôi dưỡng man mác suốt bài thơ. Những câu đẹp tiêu biểu:

 

     “... thiếu sữa mẹ đời con thành đại hạn

     thiếu lời ru con lớn với lọc lừa

     ...

      mẹ có đẹp? cha nh́n xa không nói

      nhưng con nghe dao cắt ở trong ḷng...”

 

     Mỗi Mùa Xuân Thêm Một Lần Dối Mẹ là tâm sự của người con trai lưu lạc xứ người. Tâm sự này được khơi dậy mạnh mẽ trong những ngày xuân về Tết đến. Một thời điểm sum họp gia đ́nh rất quan trọng theo tục lệ dân tộc. Mọi sự vắng mặt cần phải có lư do. Dù là lư do ngụy tạo nhiều khi cũng là cái phao, đủ để làm nguôi ngoai một phần thương nhớ, chờ đợi của người mẹ. Với những người vượt biển t́m tự do, nguyên nhân sự chia cách là chính đáng. Nhưng những chuyến trở về thăm lại vô cùng khó khăn. Rào cản chính trị, khó khăn kinh tế là những lư do thiết thực, khiến một số người ra đi phải xót ḷng t́m ra một nguyên nhân cho người ở quê nhà chờ đợi không quá tủi buồn. Hoàn cảnh của Trần Trung Đạo là t́nh trạng chung của một số người. Nhờ biết làm thơ anh giải tỏa được một phần nào u uất, và tiếng thơ của anh đă là tiếng ḷng chung của một số đông chúng ta. Cảm ơn những câu thơ thật thấm ḷng người đọc của anh: 

 

     “... Nếu chẳng phải v́ thay tờ lịch mới
     Chắc là con không biết có Xuân sang
     Đời nước Mỹ tháng ngày trôi qua chóng
     Chưa kịp xoay đă hết một năm tṛn
     Bỗng sực nhớ đến lời ai đă nhắc
     Lại lo t́m câu nói dối cho xong
     Mười một mùa xuân miệt mài đất khách
     Con dối đi dối lại biết bao lần

     ...
     Năm mới đến con cũng già thêm tuổi
     Xa mẹ hiền một tuổi nặng bằng hai
     Tuổi nước Việt chất chồng lên quá khứ
     Tuổi xứ người quần quật với tương lai
     Con chẳng biết nói thế nào mẹ hiểu
     Chẳng c̣n ai hiểu hết chuyện đời con
     Non nước đó vẫn c̣n đầy dâu biển
     Núi sông đây sao giữ được vuông tṛn”

 

     Lời Trăn Trối Của Mẹ gợi nhớ Lời Cuối Cùng của nhà thơ Thanh Tịnh. H́nh thức kiến thiết bài thơ hơi na ná nhau.

     “Rồi một hôm, nếu về, cha hỏi: / Mẹ ở đâu? con biết nói sao? / Con hăy bảo: trông cha ṃn mỏi / Mẹ từ trần sau mấy tháng đau....

     Dĩ nhiên tâm sự ngậm ngùi của mỗi người mẹ trước khi từ giă cơi đời, được bày tỏ khác nhau. Một số h́nh ảnh tiêu biểu:


     “Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
     Con chỉ dùm căn láng nhỏ bên sông
     Nơi Mẹ sống trong chuỗi ngày hiu quạnh
     Nặng oằn vai một nỗi nhớ thương chồng
     Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
     Con chỉ dùm chiếc ghe nhỏ đang neo
     Đời Mẹ đó, kiếp con c̣ lận đận
     Sớm đầu non đêm cuối bể, thân nghèo

     ...
     Nếu mai mốt Ba có về thăm lại
     Con chỉ dùm chăn chiếu phủ giường tre
     Mẹ ôm ấp chút hơi tàn quen thuộc
     Của người đi biền biệt đă quên về

     ...
     Ḷng của Mẹ, một tấm ḷng đại lượng
     Vẫn ngh́n năm son sắt chẳng phai màu”

 

     Góc Xưa Nơi Mẹ Vẫn Ngồi dàn trải tâm sự một cô gái giàu gian truân, đă từng lưu lạc với đủ nghề kiếm sống. Một lần t́nh cờ được trở về, nhận diện một góc phố thân quen, chỉ c̣n ngờ ngợ trong trí nhớ:

 

     phải đây là góc phố đă bao lần

     giọt nước mắt trôi trong thời thơ ấu

 

     Từ góc phố này, người con gái nhận ra, và sống lại với nhiều h́nh ảnh thật chua xót của chính đời ḿnh:

 

     Quầy thuốc lá ven đường em đứng đấy
     Mẹ đă ngồi nghe muỗi vắt đêm khuya
     Đời cô đơn theo nắng sớm mưa chiều
     Chiếc áo bạc mang hàng trăm chỗ vá

     ...

     Nhà hàng đó em chờ người khách lạ
     Chén cơm thừa ai để lại đêm nay
     Nuôi thân em một cô gái ăn mày
     Mười bốn tuổi đời đen hơn ánh tóc

     Công viên lạnh em thường hay đứng khóc
     Tuổi nai vàng hay tuổi của vàng phai
     Ai dạy em những mánh lới đeo đ̣i
     Cả những chuyện mà em chưa nên biết

     Nỗi cay đắng đă không buông tha cho một số phận cố gắng đổi đời, ngay đến sự chấp nhận nghiệt ngă:

     “... em bỏ đi như lá bỏ quên mùa

     như giọt nước quên tấm ḷng biển cả.

      ...

     tóc nhuộm vàng che những vết thương đau

     mắt em xanh v́ nét kẻ thay màu

     bước em nhẹ sợ màu tan trong nước...”

 

     Cùng thời điểm cố gắng tồn tại để vươn lên, người con gái cảm nhận sự mất mát lớn nhất trong đời ḿnh:

 

     “... bao mùa đông thương nhớ nặng vai gầy

      mẹ gục chết âm thầm trên góc phố...”.

 

     Thể hiện đau đớn chấp nhận số phận, nhưng không thể không hồ nghi, chua chát:

     Em là kẻ đă cuối cùng thua thiệt
     Kẻ cuối cùng mất một khoảng trời mơ
     Chẳng phải tại em mẹ chết không mồ
     Chẳng phải tại em làm đời thay đổi

     Giữa một quê hương muôn trùng thống khổ
     Mười năm trời em làm được ǵ chăng
     Rồi mai đây em sẽ hiểu ra rằng
     Ai giết chết cuộc đời em thơ ấu.

     Tác giả là người ngoại cuộc, nhưng anh không là kẻ bàng quan vô t́nh. Chính nhờ vậy, những câu thơ mềm mại t́nh người, không hằn học thù hận.

 

     Mẹ Là Thơ Nên Đất Nước Sẽ Hồi Sinh, một niềm tin nhẹ nhàng nhưng thật mănh liệt. Bài thơ được diễn đạt tâm sự của những người làm thơ có tâm huyết với quê hương, tổ quốc một cách tuyệt vời. Tôi muốn trích trọn bài để bạn đọc thưởng thức và tùy nghi nhận xét. Chỉ xin lưu ư, đọc thơ là một sinh hoạt văn học rất được ưa chuộng tại hải ngoại. Hầu hết những thành phố trên nhiều quốc gia có một số lượng người Việt tương đối, đều có tổ chức đọc thơ đi kèm trong các buổi ra mắt sách. H́nh ảnh những phụ nữ Việt, những bà mẹ có mặt trong các buổi sinh hoạt này thường thường chiếm đa số.

 

     Mẹ ngồi suốt hai giờ trên xe buưt 
     Chỉ mong đến tận nơi để nghe đọc thơ con 
     Những vần thơ chan chứa vạn nỗi buồn 
     Những vần thơ chảy ra từ tim mẹ.

     Bảy mươi lăm năm 
     Cuộc đời bao dâu bể 
     Mẹ vẫn c̣n nguyên vẹn một t́nh thương 
     Bụi thời gian không lấp kín tủi buồn 
     Đời đất khách chẳng làm phai quá khứ 
     Ḷng mẹ vẫn nương về cố xứ 
     Nh́n trời xanh hoài vọng phút thanh b́nh. 

     Mẹ chờ lâu không? 
     Như chờ ngày đất nước được hồi sinh 
     Vườn trầu cũ, hàng cau xưa ai bón 
     Mẹ để lại quê hương, láng giềng, hàng xóm 
     Mồ mả tổ tiên, thân thuộc xa gần. 

     Mẹ buồn lắm không? 
     Một đời mẹ long đong 
     Bảy mươi lăm tuổi, ngọn đèn dầu sắp cạn 
     Lỗi là ở chúng con 
     Những con chim trúng đạn 
     Mang vết thương quằn quại bốn phương trời 
     Thơ con buồn hay máu chúng con rơi. 

     Mẹ đi xe buưt suốt hai giờ 
     Chỉ mong đến tận nơi 
     Để nghe đọc thơ con 
     Những vần thơ vốn buồn hơn nước mắt 
     Con biết ḷng mẹ đau mà không khóc 
     Như chúng con vẫn gượng cười đi giữa điêu linh. 

     Có giống dân nào như một giống chim 
     Bay suốt bốn ngàn năm chưa dừng lại 
     Như đời mẹ mang nỗi buồn đi măi 
     Bảy mươi lăm năm chưa một chỗ quay về 
     Mẹ ghé từng quán sách ở San Jose 
     Để rao bán những bài thơ con viết 
     Như bán t́nh thương mẹ chảy hoài không hết 
     Bán cả niềm đau cho nhân loại vô t́nh. 

     Có ai cần đọc thơ con 
     Một thi sĩ vô danh 
     Viết những chuyện chẳng c̣n ai muốn nhắc 
     Câu chuyện Việt Nam mịt mờ xa lắc 
     Mười tám năm bao nước chảy qua cầu 
     Xin mẹ đừng buồn dù chẳng ai mua 
     Hồn thơ đó ngh́n năm sau vẫn đọng. 

      Nhờ có mẹ thơ con c̣n hy vọng 
      Mẹ là thơ nên nước Việt sẽ hồi sinh

 

     Tuy đă nói “...bạn đọc thưởng thức, tùy nghi nhận xét”, tôi chợt nhớ ra ḿnh cũng là bạn đọc, nên xin được giới thiệu những nét đẹp của bài thơ, qua thưởng ngoạn riêng:

     1- “Mẹ ngồi suốt hai giờ trên xe buưt”. Một h́nh ảnh không lạ. Câu chữ giản dị. Nhưng mục đích của việc ngồi liền hai giờ của một người mẹ, đă tạo ra một h́nh ảnh khác thường, và mượt mà chất thơ.

 

     2- Những h́nh ảnh đẹp và xác thực:

 

     Bụi thời gian không lấp kín tủi buồn 
     Đời đất khách chẳng làm phai quá khứ 
     Ḷng mẹ vẫn nương về cố xứ 
     Nh́n trời xanh hoài vọng phút thanh b́nh.
 

     ...
     Con biết ḷng mẹ đau mà không khóc 
     Như chúng con vẫn gượng cười đi giữa điêu linh 


     3-
Những thân t́nh thiết tha qua những câu hỏi giản dị, âu yếm, tăo cái bâng khuâng cho không khí thơ:

 

     Mẹ chờ lâu không ?

     ...

     Mẹ buồn lắm không ?

 

     Thưa Mẹ Chúng Con Đi là một bi hùng khúc, gói trọn vẹn cái nỗi niềm, chí hướng của những con bất ngờ phải rời bỏ quê hương. Nỗi tủi nhục mất nước, sự đau buồn trong cảnh đời lưu vong được ghi lại bằng những ḍng thật xót xa:

 

     “... Chúng con đi gót chân ṃn vạn dặm 
     Ngơ ngác nh́n nhân loại, tủi thân nhau. 
     Mười tám năm trời nuôi lớn một niềm đau 
     Mang một vết thương vẫn c̣n đang mưng mủ 
     Khi ngoảnh mặt trông về chốn cũ 
     Ḷng chưa kịp buồn, nước mắt nhỏ trên tay...”

 

      Vịn vào kỷ niệm lẫn ḷng tự hào về cội nguồn, tiền nhân, tác giả tuy chưa đưa ra một hướng giải quyết cụ thể nào, nhưng tỏ ra tin tưởng ở luật tuần hoàn, cũng như khẳng định ḷng yêu nước không mai một:

 

     “... mẹ ơi, trăng c̣n có khi tṛn khi khuyết

     nhưng t́nh yêu quê hương chẳng khuyết bao giờ”

 

     Bà Mẹ Điên là một bức tranh thời sự sống thật tại miền Nam Việt Nam, sau ngày đất nước thật sự thống nhất. Non sông liền một mối nhưng ḷng người vẫn rẻ chia, thù hận. Mười hai đoạn thơ ngũ ngôn của Trần Trung Đạo là một câu chuyện thương tâm.

  

     Chuyện kể lại cảnh tuyệt vọng, điên loạn của một bà mẹ trước sự bất lực của chính ḿnh. Tồn tại trong cuộc sống dưới mái nhà xă hội chủ nghĩa “một tấm vải dầu che nắng”, với lương thực theo chế độ hộ khẩu “sớm khoai chiều sắn”. Người mẹ ôm con dại, biết rơ nhưng không được phép tiễn chồng ra xứ Bắc chịu tù đày không bản án. Với bao vây của lư lịch việc kiếm sống, nuôi con quanh quẩn trong việc bán máu. Thiếu dinh dưỡng sức người có hạn cuối cùng phải gục ngă. Hậu quả đương nhiên tiếp theo đứa con thân yêu phải ĺa đời, bỏ mẹ trong cơn đói. Ḷng người mẹ tan nát đau buồn dẫn đến điên loạn, mất trí. Hoạt cảnh xă hội này là thành quả của một chiến thắng đại được mệnh danh là giải phóng. Sự lặp lại những chính sách tàn bạo như một ngón lành nghề của chế độ đă phân hóa dân tộc đến đỉnh tột cùng.

 

     Trần Trung Đạo, một thanh niên đầy nhiệt huyết. Anh chưa xuất hiện trong chính trường, nhưng thơ anh viết bằng nhịp đập của trái tim yêu nước, yêu dân tộc. Từ đó những ḍng thơ giàu có tính chất chính trị. Một thứ chính trị v́ nhân bản, lương tri. Trần Trung Đạo không lợi dụng h́nh ảnh người mẹ để chuyên chở những thao thức của ḿnh. H́nh ảnh mẹ hiển lộng trong thơ anh như một điều đương nhiên, bởi h́nh ảnh cao qúy này chính là trái tim, hơi thở của con người. Nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng đă rất chí lư khi nhận xét:

 

     “... Đề tài về mẹ có thể nói là đề tài “ruột” của Trần Trung Đạo. Đọc thơ anh, đâu đâu cũng thấy h́nh ảnh mẹ. Không phải chỉ là h́nh ảnh bà mẹ của riêng Trần Trung Đạo, mà là h́nh ảnh của những bà mẹ Việt Nam trong thời tao loạn.”

 

     Nhận xét về thơ văn Trần Trung Đạo đă có nhiều ng̣i bút thật sâu sắc, tinh tế:

 

     “... Quả thực có ai đọc Trần Trung Đạo mà ḷng ḿnh chẳng rung động, chẳng cảm thấy gần gũi dễ xích lại với nhau hơn? Rung cảm đó trải dài trong hai tập thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, Thao Thức và tác phẩm Giấc Mơ Việt Nam, là tập hợp “một số bài viết nhiều thuộc nhiều thể loại, đôi bài tham luận, dăm bài tâm bút, vài câu chuyện ngắn, về những vui buồn, đời và đạo, niềm đau riêng và nỗi lo chung.”

                                                      Linh mục Trần Cao Tường

 

     Một nhà tu hành khác, Thượng Tọa Thích Nguyên Siêu bày tỏ:

 

     “.... Là nhà văn, nhà thơ, tác giả Trần Trung Đạo đă tâm sự cùng độc giả về đời ḿnh. Quê hương tác giả là xứ Quảng xa xôi, dải đất miền Trung địa linh nhân kiệt nuôi dưỡng bao nhiêu anh hùng dân tộc, bao nhà văn, nhà thơ, anh tài nước Việt. Cũng có lẽ v́ mang ḍng máu đó, Trần Trung Đạo đă đắm ḿnh trong nỗi u hoài, nhớ thương về Mẹ, về quê hương đổ nát, điêu tàn, về đất nước dân tộc lầm than cơ cực...”

 

     Trong gia đ́nh thơ văn hải ngoại, Trần Trung Đạo được tán dương, thưởng thức bởi những danh xưng giàu uy tín: Lương Thư Trung, Thái Tú Hạp, Lôi Tam, Tuệ Chương, Đỗ Văn Phúc, Nguyễn Hữu Hoạt, Nhược Thu, Thi Hạnh, Trần Hoài Thư, Trần Ư Vân, Nguyễn Vy Khanh, Phan Xuân Sinh, Phùng Nguyễn, Ái Khanh, Nguyễn Thanh Huy, Nguyễn Hoàng Lăng Du, Vĩnh Liêm, Phan Nhật Nam, Trần Nghi Hoàng, Song Nhị, Doăn Quốc Sỹ, Trần Doăn Nho, Nguyễn Vĩnh Long, Giang Hữu Tuyên...

 

     Chẳng phải dễ dàng để có một đông đảo đồng t́nh ngợi khen, nếu những sáng tác không tạo được xúc động người đọc một cách rộng răi. Trần Trung Đạo, hay đúng hơn, thơ văn của anh mang được những xuất sắc cần có này. Tôi thật sự không dám viết thêm về những điều đă có quá nhiều người phát biểu. Nếu làm thơ, tôi sẽ gắng học ở anh sự trong sáng trong ngôn từ, giản dị trong suy tư và diễn đạt.

 

     Chọn thơ Trần Trung Đạo, để theo gót tản mạn, mà chỉ loanh quanh trong một chủ đề Mẹ, quả thật thiếu sót. Thơ của anh trải dài qua nhiều chủ đề khác: t́nh quê hương, t́nh yêu nam nữ, t́nh bằng hữu, t́nh người cùng những suy tư tâm sự. Mỗi nhánh thơ dưới ng̣i bút Trần Trung Đạo đều ấm áp hơi thở thi ca. Ưu tư, mơ mộng sát cánh với hiện thực là nét đặc biệt của Trần Trung Đạo. Lượng sức, không thể cặn kẻ theo từng chủ đề, tôi chỉ dám nêu lên một vài bắt gặp khi phải đọc một lúc quá nhiều bài th́ch thú.

 

     Về quê hương, cũng như những nhà thơ xứ Quảng Nam khác, địa danh là h́nh ảnh chủ yếu được Trần Trung Đạo âu yếm gọi tên qua nhiều ḍng thơ. Thu Bồn, Vĩnh Điện, Hội An, Cẩm Phô, Chùa Cầu, Núi Quế, Chợ Đụn... cùng lúc được đứng chung với những Khổng Miếu, Trần Quư Cáp, Hùng Vương... trong cơi nhớ thương vô bờ của tác giả. Từ phương trời Bắc Mỹ xa xôi, những nơi tác giả đă đi qua, đă ở lại, gần như hiện diện thường trực trong tâm hồn nhà thơ. V́ vậy anh dễ dàng thấy ra:

 

     Hải Vân đứng ngậm ngùi bao thế kỷ
     Chảy về đâu lai láng nước Thu Bồn
     Thuở học tṛ tôi hay đứng ven sông
     Nghe nước vỗ dưới chân cầu Vĩnh Điện
     ...

     Đường Phố Hội chưa mưa đà ngập nước
     Những căn nhà lụp xụp nối vai nhau

     Đ́nh Cẩm Phô, Khu Khổng Miếu, Chùa Cầu
     Tên nghe lạ nhưng vô cùng tha thiết


      Để rồi bâng khuâng thắc mắc, hoài nghi tưởng tượng:

 

      Cỏ có cao hơn nỗi nhớ trong ḷng
      Đất có lạnh hơn mùa đông Bắc Mỹ

     C̣n chăng nhỉ những con đường kỷ niệm
     Những bạn bè dăm đứa lạc nơi đâu
     Tóc chưa xanh mà đă vội hoen màu
     Thời ly loạn t́m nhau trong kư ức

     Niềm mơ ước đơn giản, nhỏ bé cũng được bày tỏ trong nỗi tha thiết trông mong:

 

     Cho tôi ghé thăm trường Trần Quư Cáp
     Những màu rêu gạch ngói cũ c̣n chăng

     Bài thơ xưa c̣n đọng dấu bên thềm
     Tôi vẫn viết nhưng thơ buồn hơn trước


     Cho tôi ghé bến xe đ̣ Nam Phước
     Lần cuối cùng em đến tiễn tôi đi
     Giờ chia tay sao chẳng nói năng ǵ
     Ngh́n năm để mây buồn vương trong mắt

     Một vài chuyến trở về quê nhà thăm viếng không phải là điều bất khả thi, nhưng sự quyết định thực hiện ḷng mong ước h́nh như c̣n lấn cấn trở ngại bởi những mắc xích kỳ thị rập ŕnh, mở ra những băn khoăn thật tội nghiệp:

     Bao giờ nhỉ tôi về thăm Núi Quế
     Đứng bên cầu Chợ Đụn nước trôi xuôi
     Mùa sim lên tím rực cả lưng đồi
     Hương ngây ngất tôi mộng thành thi sĩ

     ...

     Bao giờ nhỉ tôi trở về Đà Nẵng
     Nghe ngàn khơi thổi lạnh xuống sông Hàn
     Bến Bạch Đằng c̣n những chuyến đ̣ ngang
     Ngày hai buổi nối cầu qua An Hải

 

     Rồi những h́nh ảnh, những kỷ niệm của cả một thời xa xưa, cùng chen nhau về, giúp tác giả có những giây phút sống lại với những ǵ chưa phai nḥa trong trái tim, trong trí nhớ. Bài thơ Bao Giờ Nhỉ Tôi Về Thăm Xứ Quảng dài mười bốn đoạn, tôi đă trích già nửa bài, hẳn bạn đọc đă nhận ra sự b́nh dị, nhưng chí t́nh trong nhánh thơ viết về quê hương của Trần Trung Đạo. Trong bài thơ c̣n có một đoạn tuyệt đẹp, tôi không thể dẹp bỏ sự tham lam trích dẫn của ḿnh:

     Em Trường Nữ có bao giờ trở lại
     Thả tơ t́nh trêu chọc đám con trai
     Đường Hùng Vương thuở ấy rất là dài
     Sao quá ngắn trong những chiều chung bước

     Về nhánh t́nh lứa đôi, Trần Trung Đạo có phần hạn chế trong chủ đề này. Đúng ra thơ t́nh yêu nam nữ của Trần Trung Đạo thường được lồng vào những nhánh thơ của nhiều chủ đề khác. Anh không gần với Hoàng Lộc, Hà Nguyên Thạch, nhưng khá gần với Tường Linh, Thành Tôn... “Tôi Vẫn Nợ Em Một Lời Xin Lỗi” là một đặc biệt hiếm hoi trong thơ Trần Trung Đạo. Hiếm hoi ở đây nhằm vào số ḍng khá nhiều anh dành riêng cho cuộc t́nh. Dù những thân phận, quê hương vẫn thấp thoáng đi kèm. Điều đáng tán thưởng, nét t́nh yêu của anh cũng rất lộng lẫy trong ngôn từ. Toàn bài thơ:

     Tôi vẫn nợ em một lời xin lỗi 
     Giấu trong ḷng từ buổi bước lên xe 
     Thơ tôi viết bao lần không dám gởi 
     Chuyện t́nh buồn năm tháng lớn khôn theo 

     Em tội nghiệp như cành me trụi lá 
     Hạt sương khuya nuôi ngọn cỏ sân trường 
     Đêm tháng sáu, mưa có làm em nhớ 
     Đêm mưa nào, tôi bỏ trốn quê hương 

     Em ở lại sắc hương tàn phấn rũ 
     Thời xuân xanh qua rất đỗi vô t́nh 
     Em có khóc khi mỗi mùa thu tới 
     Lá thu vàng rơi xuống tuổi điêu linh 

     Giờ tạm biệt tôi ngại ngùng không nói 
     Không dám nh́n đôi mắt nhỏ thơ ngây 
     Em đâu biết giữa cuộc đời giông tố 
     Tôi chỉ là một chiếc lá khô bay 

     Đau nhức chảy theo ḍng thơ tôi viết 
     Thu Bồn ơi, trăng nước có c̣n chăng 
     Tôi lận đận sớm chiều lo cơm áo 
     Ngoảnh mặt nh́n bến cũ gió mưa giăng 

     Tôi vẫn nợ em một lời xin lỗi 
     Nợ quê hương một chỗ đất chôn nhau 
     Nợ cha mẹ nỗi nhọc nhằn khuya sớm 
     Tôi nợ tôi mộng ước thuở ban đầu.

     T́nh bạn đến cùng thơ Trần Trung Đạo cũng không hơn t́nh lứa đôi. Tôi có cảm tưởng người t́nh, người bạn với Trần Trung Đạo là những đối tượng để anh có dịp tỏ bày tâm sự, có dịp xác định lại những nhớ nhung đích thực trong ḷng ḿnh. Dù vậy, anh vẫn giữ được sự chân t́nh, tha thiết:

     “... Thuở tóc c̣n xanh trên mái đầu
     Chuyện tṛ tâm sự suốt đêm thâu
     Tôi mơ một mảnh trời thơm ngát
     Anh bón chùm hoa rực sắc màu

     Hai đứa thường mơ chuyện vá trời
     Tâm hồn trải rộng khắp muôn nơi
     Anh như tay kiếm thời ly loạn
     Tôi bút nghiên rung vẽ lại đời

     Nhắc nhở làm chi chuyện đă rồi
     Mộng vàng đă chết thuở hai mươi
     Soi gương tóc bạc vài ba sợi
     Tổ quốc nh́n lên chỉ ngậm ngùi

                        (Thăm Bạn)

 

     “... Uống không nhiều mà vẫn thấy say
     Vẫn ngây ngất trong men t́nh bằng hữu
     Nhà chị có một cành hoa bưởi
     Ta chợt nhớ ḿnh thuở tuổi mười ba

     Tiếng hát chị c̣n vọng măi trong ta
     Bài thơ anh viết gởi bạn bè Đông Bắc
     Ta viết dở dang, dù ḷng thương nhớ nhất
     Ngôn ngữ nào kể hết chuyện con tim
      ...

     Đừng trách ǵ ta nhé, hỡi quê hương
     Mười lăm năm, ta bỏ người đi biệt
     Mười lăm năm, trong cơi ḷng tha thiết
     Giấc mơ làm người áo vải đất Tây Sơn

     Chào Montreal, chào bằng hữu thân thương
     Một đêm say theo từng tiếng hát
     Mưa trên đường về, mưa trong ánh mắt
     Ánh mắt t́nh người làm sáng nẻo ta đi
.

                      (Đêm Bằng Hữu Montréal)

 

     Là một người có nhiều sinh hoạt xă hội, trực tiếp chứng kiến những xót đau bất hạnh, nhánh thơ T́nh người của Trần Trung Đạo thật phong phú và nồng nàn như chính hơi thở của anh xẻ chia ḥa đồng. Trần Trung Đạo đau xót trước tin “Lính Già Vừa Chết Đêm Qua”, cũng không quên ái ngại trước cảnh đời của “Anh Bộ Đội Thương Binh Tôi Gặp”. T́nh thương không phân biệt nguồn gốc hận thù, chiến tuyến. Trái tim người làm thơ luôn luôn bao dung và b́nh đẳng. Những nhục nhằn xót đau của dân tộc luôn luôn có chỗ đứng trang trọng trong thơ Trần Trung Đạo:

 

     “Người lính già Việt Nam 
     Vừa mới chết đêm qua 
     Trên đường phố San Jose bụi bặm 
     Anh đă đi bao nhiêu ngh́n dặm 
     Đến nơi đây chỉ để chết âm thầm 
     Không một phát súng chào 
     Không cả một người thân 
     Không ai nói với anh một lời tiễn biệt.

     Người lính già Việt Nam 
     Như con thú hoang lạc loài 
     Trên freeway nhộn nhịp 
     Một tiếng rên thảng thốt chảy trong mưa 
     Một chiếc lá cuốn đi theo cơn gió cuối mùa 
     Một tiếng nấc ră rời trong đêm vắng. 

     ....

     Một người Việt Nam sinh nhầm thế kỷ 
     Và chết cũng nhầm nơi 
     Đêm nay bên kia bờ trái đất xa xôi 
     Quê hương anh vẫn c̣n ch́m trong lửa đỏ. 

     Tôi gởi anh đôi ḍng thơ 
     Từ trái tim của một thằng em nhỏ 

     Cũng lạc loài lưu lạc như anh 
     Chúng ta, hai chiếc lá chung cành 
     Bay phơ phất trước từng cơn băo tố 
     Ngủ đi anh b́nh yên nơi chín suối 
     Đau thương nầy em sẽ viết thay anh”.
 

                 (Người Lính Già Vừa Chết Đêm Qua)

 

     “Cuối năm tám mươi
     Có một lần tôi đi ngang bệnh viện V́ Dân
     Nghe đâu đă đổi tên là Thống Nhất
     Anh bộ đội thương binh
     Ngồi dưới hiên
     Nghêu ngao hát
     Khuôn mặt gầy tuổi mới quá hai mươi
     Giọng anh buồn đôi mắt ngắm xa xôi
     Anh đang hát về quê hương miền Bắc
     Tôi ngồi xuống bên cạnh anh
     Anh rất tự nhiên xích người nhường chỗ
     Tôi khen anh hát rất hay
     Anh mỉm cười
     Nụ cười sao hồn nhiên chất phác
     Tôi rút mời anh điếu thuốc
     Anh lấy trong người cái hộp quẹt Zippo

     Tôi bỗng bật cười to:

     - Thế anh cũng thích xài đồ Mỹ ngụy

     Anh điềm nhiên trả lời

     - Đây chỉ là kỷ niệm
     Của thằng bạn thân đă chết ở B́nh Long.

     Không hẹn ḥ chúng tôi bỗng thấy thân
     Ánh mắt bao dung
     Nụ cười tuổi trẻ
     Hết điếu nầy chúng tôi mồi điếu khác
     Khói thuốc mịt mù quanh chỗ chúng tôi.

     ....

              (Anh Bộ Đội Thương Binh Tôi Gặp)

 

     Tôi rất đồng t́nh với nhận xét của một người bạn: t́nh cảm của Trần Trung Đạo dành cho người lính già hoặc cho anh thương binh chỉ là t́nh cảm chung của hầu hết con dân miền Nam. Phần đất đă nuôi xanh t́nh thương yêu, t́nh dân tộc. Cái tuyệt vời ở Trần Trung Đạo là anh đă nói lên nỗi niềm thương yêu chung đó bằng thi ca, bằng ngôn ngữ thơ thật ấm áp, cởi mở. Người lính già, người thương binh có thể chưa kịp gởi đến nhà thơ lời cảm ơn. Chúng ta xin được thực hiện điều đó, để một lần nữa nh́n rơ hơn chân tâm của người Việt Nam.

 

      Những người làm thơ, viết văn hoặc sinh hoạt trong bất cứ bộ môn nghệ thuật nào đều có một đời sống nội tâm phong phú. Càng va chạm với xă hội, với đời thường, niềm ưu tư càng giàu. Nhu cầu giải bày tâm sự cũng từ đó phát triển rộng răi, đều nhịp. Làm thơ là một phương thức tỏ bày tấm ḷng, nói lên những suy nghĩ về mọi góc cạnh được tiếp nhận từ ngoại giới. Trong nhánh thơ ưu tư, tâm sự này, Trần Trung Đạo đă thả ḷng ḿnh thật hào phóng, thật thảnh thơi. Có thể nói trong cả trăm bài thơ, được giới thiệu trên trang web riêng của anh, bài nào cũng chan chứa những tỏ bày, những suy tư về cuộc đời, về thân phận con người. Trích dẫn để minh chứng điều này khá dễ dàng, nhưng riêng tôi sẽ vấp ngay cái tham lam. Dù sao cũng xin bốc đại nhưng đoán Kiều một vài lần:

 

     “... Bạn bè cũ từ lâu không gặp lại
     Người bỏ đi theo sóng nước miệt mài
     Con dế nhỏ tiếc vầng trăng thơ dại
     Ta tiếc thầm hơi ấm một bàn tay

     Ta vẫn bước trên đường đầy gai nhọn
     Thời gian qua năm tháng đến không ngờ
     C̣n hy vọng dù đă từng tuyệt vọng
     Gót chân trầy máu nhỏ xuống trang thơ

                          (Thành Phố Mùa Đông)

  

     “... Đêm ngồi nghe tiếng chim trên biển 
     Như tiếng thu xưa thổi lá vàng 
     Ḷng ta mấy độ vàng như lá 
     Từ buổi xa người trên bến sông 

     Ở đây ta sống đời khinh bạc 
     Sớm tối đi về một cơi riêng 
     Cả một sơn hà ta nỡ bỏ 
     Sá ǵ chỉ một trái tim em

              (Đêm Ngồi Nghe Tiếng Chim Trên Biển) 

 

     “... Đêm nay anh viết nốt bài thơ
     Dẫu biết chẳng thể nào tới tay em được
     Thơ của anh
     Tâm sự của một người anh nhu nhược
     Giữa muôn vạn khổ đau chỉ biết đứng nh́n
     Lơ láo giữa chợ đời
     Vết thương nặng trong tim
     Anh vẫn ung dung như người khách lạ
     Nước Mỹ ấm no làm anh quên tất cả
     Quên bảy chục triệu đồng bào đang cảnh lầm than
     Quên đám em thơ lưu lạc bốn phương ngàn
     Quên cả chính anh với những đau thương thời thơ ấu...”

                     (Người Con Gái VN Trên Đại Lộ SRI AYUTTHAYA)
 

 

     Nhiều người cho rằng đọc thơ là đi t́m sự yên tĩnh cho tâm hồn. Tôi h́nh như cảm thấy ngược lại, nhất là đọc thơ Trần Trung Đạo. Sự giản dị trong ngôn từ, giàu h́nh ảnh, trong sáng trong suy tư, đă mở ra những cảnh sống bắt ḷng ḿnh phải suy ngẫm, sống cùng. Trần Trung Đạo cũng như hầu hết các ng̣i bút thành danh khác, đều viết bằng trái tim cùng khối óc. Đây là điều đương nhiên, không cần lặp lại. Nhưng tôi vẫn nêu ra để nhấn mạnh thêm: mọi sáng tác của Trần Trung Đạo đều qui về một mạch tâm cảm. Điều này giúp chúng ta không bỡ ngỡ trước những sáng tác văn xuôi mới nhất của anh. Tôi tin rằng tác phẩm mang tên Tâm Bút của anh cũng là những bài thơ thật đẹp, một loại thơ xuôi dễ cưu mang những tâm t́nh, dễ bày tỏ những tâm sự.

 

     Tản mạn cùng thơ Trần Trung Đạo, trong những ngày trời dở mưa, dở nắng với cái cổ như bị bù loong khóa chặt, thỉnh thoảng đau nhói, thiếu thoải mái; cũng may, những ḍng thơ đậm đà chân t́nh của nhà thơ thật nhu hiền, đă giúp tôi không bỏ dở cuộc chơi. Đọc thêm bài dưới đây để có thêm một ngày c̣n biết cần niềm vui:

     Có những người tôi chưa hề gặp mặt
     Những người tôi không rơ họ tên
     Bốn phương trời chưa một chút thân quen
     Sao bỗng thấy như vô cùng thân thiết

     Tôi miền Bắc đang vào mùa băng tuyết
     Anh miền Nam sương trắng bốn mùa bay
     Từ nơi nầy ta đă biết quen nhau
     Đâu nhất thiết phải đong đầy kư ức

     Cũng như anh tôi ngàn đêm thao thức
     Hăi hùng mơ chung một giấc chiêm bao
     Có tiếng quân reo, ngựa hí, kêu gào
   
 Tiếng xích khua vang, tiếng người rên siết

     Cũng như anh, tôi đôi lần ra biển
     Hướng về Nam mây trắng một màu tang
     Có ai về xoay ngược bánh thời gian
     Cho tôi nhặt những mảnh đời đă mất

     Trong thơ tôi mùa Xuân chim không hót
     Thu không vàng Hạ chẳng để yêu đương
     Thơ của tôi là máu rỉ trăm đường
     Là u uất đă ch́m sâu trong đất

     Cũng như anh tôi mười năm đất khách
     Có ǵ vui đời một kẻ lưu vong
     Khi tôi chết nấm mồ hoang cỏ mọc

     Đă làm ǵ để lại với non sông?

                (Những Người Bạn Tôi Chưa Hề Quen- Trần Trung Đạo)

                               

Hà Khánh Quân

02-6-2010