Tâm, Vóc Ðà Nẵng Của Tôi

Ðà Nẵng, với diện tích 1.247 cây số vuông, nằm cách Sàigòn 964 cây số về hướng bắc; cách Hà Nội 764 cây số về hướng nam. Phía đông bắc là vũng Ðà Nẵng, có bán đảo Sơn Trà, và núi Sơn Chà cao 693 thước; Với hải cảng rộng, kín gío, với phi trường có diện tích lớn, với quốc lộ số 1,số 14 và liên lộ 4, Ðà Nẵng được nhìn nhận là một thành phố.  Hơn thế nữa, là một thành phố có tầm vóc thứ 3 của Quốc Gia Việt Nam, vào thời điểm này.

Trước đây, vào thời Tây Sơn, Ðà Nẵng được giới thiệu bởi nhà văn Nguyễn văn Xuân,( một giáo sư, một học gỉa của Quảng Nam):
"...Nhà cửa thấp, hầu hết bằng tre, lợp lá hoặc rơm rạ, ở lẫn lộn trong cây cối, ngoại trừ chung quanh khu vực chợ.  Những nhà cửa cao đẹp hơn thì xây dựng giữa vườn, trong vườn trồng những cây cau hoặc các loại cây vừa làm cảnh vừa hữu dụng. Phía sau thành phố có nhiều cụm trồng cam, chanh, chuối, cau. Nhiều ngôi nhà còn nguyên vẹn với cây cao bóng mát. Một số nhà khác ở tình trạng hoang phế, tiêu điều. Ở bờ sông bên kia (Hà Thân) mở ra nhiều đám ruộng, gò với vườn tược bọc quanh, trong đó trồng thuốc lá, mía.
Còn chợ của thànhphố thì đầy rẫy những sản phẩm nhiệt đới, kể cả gia cầm mà nhiều nhất là gà vịt.Người ta cũng bán tại đây rất nhiều chim "mổ mắt" (dardeur) bụng đen -loại chim chim có tên gọi theo đặc điểm là hay dùng mỏ dài và nhọn mổ vào mắt những vật nó thấy sáng lên, nhất là mắt của những kẻ nhìn nó. Vì thế, khi mang bán ở chợ Ðà Nẵng, người ta đã cẩn thận khâu mắt nó lại để nó khỏi nhìn thấy.
Tại ÐàNẵng không thấy có lò sát sinh, nơi giết súc vật để bán thịt, song trong các bữa tiệc lớn vẫn dọn đầy thịt bò, thịt heo. Trong những bữa tiệc đãi phái đoàn, người ta thấy cả trăm chiếc đĩa đựng đồ ăn xếp ba hàng và chồng lên nhau. Ở xứ này, nhiều người dân chuộng thịt trâu hơn thịt bò và chẳng thấy ai uống bất kỳ loại sữa gì. Voi dùng trong việc chuyển vận và nhất là trong chiến tranh, đây là một nơi trong số ít những nơi trên thế giới mà người ta thích ăn thịt voi và cho đó là loại thịt ngon..."
(1)

Về sinh hoạt trong cuộc sống qua các ngành Ngư, Công, Nông,Thương, xin được lượm ra những nét vẽ từ bài viết của tác gỉa Bão Rừng :

..."Người dân Ðà Nẵng chuyên ngư nghiệp. Ghe thuyền đánh cá đậu dọc bờ sông.Người đánh cá hoạt động trên biển cả...

 .."Dân đánh cá rất mê tín, luôn luôn cúng bái những thần linh tưởng tượng. Con cái họ mới lớn tí xíu đã dẫn nhau xuống sông, bơi như lũ vịt con.

"Về Nông nghiệp thì phong tục cũ còn nhiều. Nông dân có vẻ linh lợi, thông minh. Ðàn bà đông hơn đàn ông , đều chăm chỉ công việc đồng án. Nhà cửa sạch sẽ, thuận tiện cho một dân tộc ở vùng khí hậu nóng hoạt động lâu dài ngoài trời...

...." Ngay tại Ðà Nẵng, người ta thấy trong thành phố có trồng nhiều loại cây ăn quả. Bên Hà Thân có nhiều ruộng trồng thuốc lá, mía. Còn trâu thì nuôi thành đàn dưới chân núi Hải Vân....

..."Trong công tác trồng tỉa và trong xí nghiệp rất ít ỏi, họ (người dân,ghi chú thêm) tỏ ra không thua kém gì các quốc gia có nền công nghệ phồn thịnh. Ðôi khi họ còn biết dùng những phương thức thuận tiện và đạt hiệu quả hơn ở các nơi khác khi làm cùng một công việc...

..."Ðà Nẵng cống hiến một vùng an toàn cho các tàu bè lớn nhất suốt trong mùa mưa bão..."
(1)

Ðà Nẵng năm 1951, năm lên mười và cũng là năm khởi sự đậu lại bền lâu của chúng tôi, tại một thành phố còn đông đảo người Pháp, đó là một thành phố rất hấp dẫn.

Một thành phố có những xe chở các thùng phân người mỗi ngày, có những đoàn xe chở thương binh, hoặc chở xác từ các mặt trận đưa về. Con đường Triệu NữVương vừa được khai mở chưa tráng nhựa, phơi phới những phụ nữ giàu màu mè của son phấn. Con đường Hoàng Diệu chưa được thông suốt lưu chuyển, bởi một trạm gác của lính lê dương,tiền thân của đồn cảnh sát Hoàng Diệu về sau.

Trong thành phố có hai bãi phóng uế công cộng. Một, vạc dương liễu tiếp giáp với bờ biển Thanh Bình. Nơi đây có một trại nhỏ nuôi dê lấy sữa của người Chà Và. Một bãi khác là cồn đất cao trước Kho đạn. Cồn đất này,về sau được san bằng để lập một ngôi chợ, với tên gọi Chợ Cồn, ngày nay. Cùng với chợ Cồn, một dãy nhà lợp tôn nằm bên trái con đường Khải Ðịnh, theo hướng ra biển, được dựng lên, đó là chung cư của gia đình Cảnh sát Việt nam. Gần đó không xa, có hai địa danh được gọi bằng hình ảnh cụ thể: Giếng Bể và Dốc Cầu Vồng.

Giếng Bể có thành tròn cao xấp xỉ đến đầu gối một người lớn.
Thành giếng bị sứt một một góc,lòng khô, có khá nhiều rác rến.  Ðây là một tụ điểm của những mẹt, rỗ bắp nướng, khô mực... bàn đánh bầu, cua , cá, gà ...xúm xít với nhau về đêm.

DốcCầuVồng,nằm trên đường ThốngNhất. Không rõ con đường khang trang này được kiến thiết qua một cồn đất sẵn có độ cao , hoặc độ cao được vun đắp cho thuận tiện, dành cho đường tàu hỏa chạy bên dưới ?

Ngoài hai cái tên thật dễ thương trên, ÐàNẵng còn có những tên gọi rất khó quên : Bến Mía, Xóm Chuối, Cống Mê Linh, Bầu Sen, Giếng Bộng...... Những cái tên nói lên sự nghèo khó, cảnh chen chúc cùng sức sống mãnh liệt.

Với lứa tuổi lên mười, chúng tôi, trong vài dịp tình cờ, cũng thỉnh thoảng rũ nhau, nhấp nhõm nhìn vào các phòng dancing của người Pháp, mà chúng tôi gọi là nơi "xích, xích". Tên gọi khởi từ các động tác xích lui, xích tới, xích qua, xích lại của những người ngoại quốc đang say trong tiếng nhạc.

Chúng tôi cũng không quên những chuyến xe Vàng khởi từ Bến Mía đi về Ga Lớn hoặc một nơi nào đó, với các trạm dừng bên đường. Ðây là một loại xe buýt mang nhãn hiệu Renault , được sơn màu vàng.

Chúng tôi cũng không quên những trận bóng tròn ở sân Chi Lăng, với những giờ phút hồi hộp chực chờ để nắm đại tay một người nào đó, dễ tính đưa lọt qua cổng soát vé.

Những nắp ken, những sợi giây cao su tròn, đủ màu, những bao thuốc lá, những tờ programme tại các rạp chiếu bóng cũng đã dẫn dắt, đồng hành với ngày tháng của chúng tôi một thời.

Ðà Nẵng chợt thay đổi nhiều trong năm 1954.

Những khu nhà ở được thiết lập với các tên gọi :Thanh Bình,
Tam Tòa, Thanh Bồ, Ðức Lợi...Thành phố bắt đầu chật ra.  Chúng tôi chạy theo xem những đám người lùng bắt chuột cống trên các ngã đường.. quên cả việc đánh cờ gánh ở cột đài Diên Hồng, quên lăn lộn với trái tennis trên bãi than trước Bảo Trợ Nhi Ðồng.....Và chúng tôi thong dong lớn lên, dớn dát ngó mỗi khi đi ngang bordel vừa đóng cửa trên đường Thống Nhất.

Tâm,Vóc Ðà Nẵng, phía sau những tháng năm chinh chiến càng ngày càng thanh thản ,khởi sắc. Nhà thơ Phan Xuân Sinh, một đứa con của Nại Hiên, một đôi mắt săn, giữ những sắc hương một thời của trường trung học Sao Mai, hồi niệm :

..." Vào khoảng thập niên 60, Ðà Nẵng có cái lệ là chiều thứ bảy thiên hạ rần rần đổ ra đi "bát phố". Trai thanh gái lịch đủ mặt, cũng chỉ đi lòng vòng mỗi một "blốc" đường. Muốn tìm người quen hay bạn bè thì chiều thứ bảy đứng phía trước mặt Chợ Hàn, thế nào cũng gặp. Còn nếu không, sợ đứng lâu mỏi chân thì ngồi ở quán cà phê gần Thông Tin ở đường Yên Báy, người mình muốn gặp phải đi ngang qua đó. Nói vậy đủ biết Ðà Nẵng lúc đó dân số không đông lắm. Ðường sá vẫn còn vắng vẻ chứ không như bây giờ. Dân chúng cũng thảnh thơi, ung dung dạo phố. Cái ăn, cái mặc, nó không quấn bên đít nên cũng còn hưởng được chút tao nhã của một thời thịnh trị. Tụi tôi còn là học sinh, xe đạp khóa lại, đặt ở bờ tường Thông Tin, rồi đi dạo phố. Ði cả buổi, lúc nào về, trở lại chỗ cũ lấy xe. Xe vẫn còn nguyên vẹn chứ không bay mất. Như vậy đủ biết, tình trạng trộm cắp trong thành phố chưa là mối lo cho dân chúng..." (2)

Ðà Nẵng của thập niên 70, không những đã chia tay cùng những đêm thứ bảy, những chiều bát phố của Phan Xuân Sinh, mà chúng tôi còn phải chia tay với nhiều buồn vui, dồn dập gối đầu lên nhau.Những ngày tháng dở mưa dở nắng, thở trong hơi lựa đạn cay, đi dưới những giải băng biểu ngữ rồi cũng qua. Những người bạn sát vai, đứng Trước Ðầu Gió,Phạm Thế Mỹ, Vương Thanh, Hà Nguyên Thạch...cũng đã rời thành phố. Ðà Nẵng không có cái huyên náo trường kỳ, liên tục như cố đô Huế. Nhưng Ðà Nẵng có cái quyết liệt đến cộc cằn. Bạo động, đổ máu sẵn sàng xảy ra. Chúng tôi đã từng có đêm lim dim nằm trên lầu hai Tòa Thị Chính, để chợt giật mình, sợ bè bạn lặng lẽ rút đi. Chúng tôi từng tức giận, bất lực ném bỏ cái con dấu thuê khắc vội, dùng hổ trợ cho một việc làm đầy lý tưởng của tuổi trẻ..Ðã qua hết, kể cả những tháng năm chúng rời ÐàNẵng, để trực diện nói chuyện cùng những người anh em bên kia Bến Hải, bằng ngôn ngữ súng đạn. Ở thập niên 70, trong nhịp bước không đồng đều của đôi bàn chân, với Ðà Nẵng,chúng tôi tưởng đã có một cuộc sống thanh thản giản dị.Nhưng không, sân chùa Hải Châu, mìn bẩy trong vòng đai quân đoàn, ép lấy của chúng tôi nhiều hạt mồ hôi mướt lạnh. Ngước nhìn làn khói trắng của một chiếc B52 nào đó, bỏ dài giữa đám mây, mà nghe ra lời chia tay ướt sũng với bầu trời...

Ðà Nẵng bước qua bốn năm đầu của thập niên 80. Ðêm theo đêm học tập. Tuần qua tuần tập viết. Lý lịch đôi mươi dòng nhưng không dễ lặp lại giống nhau. Có gian dối trong thành thật, có thành thật trong gian dối. Và may thay, những con số, đã giúp chúng tôi. Những Châu Văn Tùng, Những Trương Xếp, Phan Minh Khóa, Lê Thị Hồng Lê, Ngô Thị Phước Hạnh, Hoàng Thị Xuân Dung, Ðỗ Thị Hoa, Lê Thị Thư Nguyệt, Scotte Jeanne... của Ðà Nẵng, vẫn Ðà Nẵng, vẫn đồng hành cùng chúng tôi.

Nhìn tổng quát về một giai đoạn lịch sử, được gọi tên là thời kỳ Quốc Gia . Mặc dù tình hình chính trị không mấy ổn định, đi kèm với những tệ nạn tham nhũng, hối lộ, miền Nam Việt Nam nói chung, Ðà Nẵng nói riêng, vẫn là một xã hội cực kỳ phát triển trong quyền thực sự thụ hưởng tự do của người dân.

Tại Ðà Nẵng, những cao ốc, những cơ sở thương mại thi nhau xuất hiện. hoạt động. Sự có mặt của các chi nhánh ngân hàng lớn như Việt Nam Thương Tín, Việt Nam Công Thương, Tín Nghĩa ngân hàng, Trung Việt ngân hàng, Kỷ Thương ngân hàng, Ngân hàng Phát Triển Công Nghiệp, vv...đã nói lên được sự trưởng thành kinh tế rất cụ thể. Gía trị đồng bạc của ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, (những người bạn đồng hành thân quen, chúng ta chợt nhìn lại dưới đây), dù hối suất, có thể còn khiêm nhường so với các quốc gia giàu mạnh, đồng bạc của Việt Nam thời bấy giờ, vẫn có gía trị cao.


Cùng với sự ổn định, lớn mạnh của kinh tế, thương mại, các ngành khác như giáo dục, nghệ thuật, y tế, quân sự, thể thao thể dục, giải trí...cũng không ngừng tăng tiến. Ðời sống của thị dân thật dễ chịu, thoải mái.

Ðà Nẵng ngày hôm nay, chúng tôi có theo chân, cùng thanh giọng của cô tuyệt sắc, duyên dáng Võ Sông Hương, qua vài đoạn băng vidéo, và nhìn thấy tầm thay da đổi thịt khá lớn lao. Nhưng đi kèm cái hào nhoáng này, hình như mới thật sự lấp lánh một cụm từ "phồn vinh gỉa tạo" , mà nghe chừng như quen lắm.

Lê Bảo Hoàng

  1. Ðà Nẵng Thời Tây Sơn của Nguyễn Văn Xuân trong Quảng Ðà giai phẩm, mùa Thu 1994 Thái Tú Hạp thực hiện tại Hoa Kỳ
  2. Quê Tôi Và Những Ân Tình của Phan Xuân Sinh trong đặc san Xứ Quảng-Massaschusettes. Tân Tỵ 2001