Ðà Nẵng Qua Cái Nhìn
Ðịa Lý, Văn Hóa, Lịch Sử
*
Trần Quốc Vượng

Ðà Nẵng với sông Hàn - cửa Hàn - vịnh Hàn và bán đảo Sơn Trà, là một cảnh thị rất tốt của miền Trung, của cả Việt Nam.  Cái tên Hàn, tôi thấy trong thơ Ðường :

" Cô tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền"


Lại cũng thấy bến đò Hàn ở Ninh Giang - Vĩnh Bảo, Hải Dương, thoạt cứ ngỡ là tên chữ Hán tự, hóa ra Hàn-Hat-Hac (như "Hát Môn" ở Sơn Tây - Hắc Hải ở Quảng Bình) là tiếng melaya cổ, chỉ bến sông, cửa sông.


Ðà Nẵng vốn là một thành phần hữu cơ của xứ Quảng, của tỉnh Quảng Nam. Tây thực dân tách Tourane - Ðà Nẵng- một cái tên gốc Chàm- ra thành "nhượng địa" kiểu Tây. 
Chiến tranh và Cách mạng lại gắn bó Quảng Ðà với nhau.

Nay do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Ðà Nẵng lại tái lập là thành phố trực thuộc trung ương, nhưng tất nhiên vẫn phải liên lạc với Quảng Nam. Về mặt kinh tế cũng như về mặt văn hóa xã hội vẫn phải đặt Ðà Nẵng trong bối cảnh xứ Quảng, nếu như chúng ta muốc có một cái nhìn khoa học.

Ðà Nẵng nằm ở phía nam chân đèo Hải Vân, mà Sơn Trà - cũng cấu tạo địa chất - là sự nối dài ra biển, một sự đâm ngang, của dãi cuối Trường Sơn nam - có người gọi là Nam Sơn.

Từ Hải Vân trở vào nam của đồi rừng á xích đạo. Ðà Nẵng - xứ Quảng không có mùa khô rõ rệt, do tác dụng bức chấn của khối núi bắc Kontum nên trong mùa gió đông bắc lượng mưa còn đáng kể. Hải Vân như một bức tường thành làm giới hạn cuối cùng cho cái mùa đông gió bấc lạnh lùng của miền bắc nước ta.

Ðà Nẵng - xứ Quảng không có mùa đông vì nhiệt độ trung bình các tháng đều trên 20 độ C, mấy tháng đầu năm, khí trời dịu mát, khô ráo; tháng 5 đến tháng 8, bầu trời ixanh ngắt, nắng hắt xuống cồn cát trắng xóa, mặt biển thẩm lại, gần như chuyển sang màu tím.  Mùa nắng lại không phải là mùa mưa vì dãi Trường Sơn chắn gió mùa tây nam từ vịnh Bengale thổi tới. Mưa lệch pha với hai miền bắc bộ và nam bộ, bắt đầu từ tháng 9, tháng 10 (mưa hội tụ nội chí tuyến và tiếp theo là mưa địa hình) Gío bấc thổi mát từ biển vào, đưa tới Ðà Nẵng- xứ Quảng những trận mưa kéo dài nhiều ngày rả rích. Ðây là mùa thu của miền Trung và cũng là mùa bão lũ. Mưa giảm dần về cuối năm và sang giêng thì kết thúc.

Bờ biển Ðà Nẵng - xứ Quảng vốn khúc khuỷu nhưng đã được san bằng qua phương thức cồn cát-đầm phá, các mõm núi nhô ra biển được nối liền bởi các dải cồn, hải lưu
chảy nhanh hơn bùn sét do hệ sông Vu Gia - Thu Bồn mang ra đã ít, lại bị cuốn đi xa nên ven biển gồm toàn cát trắng xám. Cũng vì thế mà có nhiều bãi tắm đẹp, tốt như Tiên Sa, Non Nước, Mỹ Khê.

Sóng gío biển vun cát nên cồn trong khi sông tải phù sa ra biển. Sông và biển phối hợp nhau tạo nên đất nước, và ảnh hưởng vào văn hóa con người. 

Lãnh thổ Ðà Nẵng trải dài tới vùng Non Nước - Ngũ Hành Sơn (Lạ một điều, trên các bản đồ Mỹ và bản đồ du lịch, người ta cứ ký hiệu vùng Non Nước- Ngũ Hành Sơn là China beach (bãi biển Trung Hoa). Ðó là điều tối kỵ, mong sở du lịch Ðà Nẵng lưu tâm sửa đổi).

Như thế, Ðà Nẵng nay bao gồm cả lưu vực sông Vĩnh Ðiện ( Câu Nhí) ngã ba Ðiện Ngọc. Ta nhớ đến câu ca dao xưa ở thế kỷ XIX :

"Từ ngày Tây lại cửa Hàn
Ðào sông Câu Nhí, đắp đàng Bông Miêu"


Câu này dễ gây hiểu lầm. Câu Nhí (xã đầu sông) vốn là một từ gốc Chàm như Cổ Mân (xã cuối sông nơi hợp lưu với sông Cẩm Lệ). Sông Câu Nhí Vĩnh Ðiện vốn là sông tự nhiên nối Thu Bồn và Cẩm Lệ, để mở ra cửa Hàn theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (chép ở quyển 7 tỉnh Quảng Nam) :  "Sông ấy khuất khúc, lâu ngày bị bồi đắp, năm Minh Mạng thứ 3 (1822) ... khai nhân sông cũ mà đào từ xã Cau Nhí đến xã Cẩm Sa (thôn Cu-Ðê)". Sông này cũng như cảng Ðà Nẵng đã được khắc hình tượng vào Du đỉnh đặt ở kinh thành Huế.

Ở châu thổ sông Vu Gia- Thu Bồn có những sông con hay sông nhánh, với thời gian đắp đổi, thường bị đổi dòng hay bị phù sa lấp cửa, lâu dần thành loại sông "nửa kín nửa hở" hay thậm chí thành "sông lấp" hay thành "sông chết". Dù nhu cầu thủy lợi, giao thông ngày nươc quân chủ ngày trước và nhà nước dân chủ sau này phải tổ chức đào lại và thường nắn dòng chảy cho thẳng hơn, thậm chí đặt lại tên sông nữa, nên về sau, nếu ta không nhìn nhận kỹ, cứ ngỡ là sông đào, kiểu "kênh máng" Tôi đã đi điền dã ở lưu vực và trên dòng sông Vĩnh Ðiện từ "cửa vào" gần sông Câu Lâu trên sông Thu Bồn (địa phận thị trấn Vĩnh Ðiện) đến Cu Ðê- Cẩm Sa và tôi biết chắc đây vốn có dòng chảy tự nhiên, đi thuyền được. Cũng vậy, có một dòng sông chảy vòng vèo dọc bờ biển nối cửa Hàn và Hội An, dân gian xứ Quảng đến nay vẫn gọi là sông Cổ Cò, nay bị lấp nhiều chỉ còn từng đoạn mà trên từng đoạn ấy (nhất là phía gần Hội An) vẫn có thể đi thuyền được. Hơn ai hết, nhà khảo cổ cần phải biết về những dòng sông cũ đó vì từ thời đại đá mới sơ kỳ kim khí trở về sau, các di chỉ văn hóa- tức là những làng mạc cổ - thường phân bố trên các đồi - gò đất cao (miền bắc đồi gò, miền trung cồn dãi cồn, miền nam giồng) đó là những làng ven sông hợp với những làng ven đồilàng ven biển tạo nên mạng lưới làng quê Việt Nam với phức thể kinh tế nông- công- thương-chài. Khảo cổ học Ðà Nẵng- xứ Quảng sau giải phóng (30-4-1975) đã phát hiện được những di chỉ Ðiện Ngọc (có rìu đá, rìu đồng, gốm thô pha cát...) Hỏa sơn (sườn núi Hỏa trong hệ thống Ngũ Hành Sơn, chân núi là cồn cát cổ) thuộc phức hệ văn hóa Sa Huỳnh, tuổi (qua xác định bằng phương pháp phân tích cũ) từ 2000-2500 năm trở về trước mà chủ là những cư dân nói tiếng melayu cổ - tiếng Chăm.

Trong một hang động thuộc Ngũ Hành Sơn nay đã hình thành chùa Việt, gần chục năm về trước, nhà sư và giới khảo cổ đã phát hiện được một số di tích kiến trúc - điêu khắc đá Chàm cổ niên đại X - XI và muộn hơn, Hội An và Cù Lao Chàm cũng đã tìm thấy phế tích tháp, giếng Chàm, tượng và điêu khắc Chàm niên đại sớm muộn trước thế kỷ XV. Chính ở phía ngoài bến cá - chợ cá Ðà Nẵng bên kia bán đảo Sơn Trà (sách cũ như Ðại Nam Nhất Thống Chí chép là Trà Sơn- núi của người Trả = Chăm trước thế kỷ XV cũng có làng Cu Ðê của người Chăm với sông Cu Ðê của Cu Ðê. tấn biển (trấn hải) Cu Ðê cùng Tấn biển Ðà Nẵng là chỗ hai dòng sông Cẩm Lệ và Vĩnh Ðiện chảy ra biển.

Ðại Nam Nhất Thống Chí (q.VII- Quảng Nam (tỉnh) chép: "Vũng Sơn Trà (tức vũng Thùng-TQV) ở phía bắc huyện Hòa Vang, lại có tên là vũng Ðà Nẵng. Phía đông là núi Trà Sơn (Sơn Trà nay - TQV), phía bắc là núi Hải Vân, phía tây là tấn Cu Ðê, dài rộng ước 25 dặm linh (có lẻ), phía đông nam là vũng Trà Sơn (tức vịnh Hàn-TQV) là vùng biển lớn, vừa rộng vừa sâu, có thể chứa được hàng ngàn thuyền ghe, phía ngoài có núi che, không phải lo về sóng gió; tàu thuyền đi lại gặp lúc chưa tiện gió, phần nhiều đổ tại đây"

Sách Thiên Nam Dư Hạ Tập chép rằng : Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1471_TQV), đóng quân ở Hải Vân Quan, đêm khuya không ngủ, vừa đứng ngắm núi biển, đèo, mây, nước, có câu thơ:

Tam canh dạ tĩnh Ðông Long Nguyệt
Ngã cố phong thanh Lộ Hạc thuyền


dịch:

Trăng Ðông Long ba canh đêm tĩnh
Thuyền Lộ Hạc năm trống (canh) gió thanh

Ðông Long là tên vùng biển nam Hải Vân; Lộ Hạc là tên nước (Locac= bán đảo Mã Lai nay - TQV), người nước này hay đi thuyền đến đây buôn bán.

Như vậy là rõ: Trước thế kỷ XV, Ðà Nẵng đã là Cảng Quốc Tế. Trên đã nói sông Cổ Cò nối cửa Hàn Ðà Nẵng và cửa Ðại Hội An. Ðà Nẵng - Hội An là một phức cảng thị quốc tế, thuyền buôn quốc tế từ bắc xuống, qua cửa Hàn, theo sông Cổ Cò qua Ngũ Hành Sơn vào vụng Trà Quế mà tới Hội An; từ phía nam lên, theo sông Trường Giang (cũng chảy dọc ven biển từ Thăng Bình tới Duy Xuyên nay) vào vụng Trà Nhiêu mà tới Hội An buôn bán.

Cuối XVIII - XIX, sông Hội An với các vụng Trà Nhiêu, Trà Quế bị lấp cạn dần, thuyền máy hơi nước tải trọng lớn ra vào Hội An bất tiện (ghe bầu thì vẫn được nên dần dà Hội An phải nhường bước cho Ðà Nẵng thành cảng thị quốc tế chính ở miền Trung.


Trần Quốc Vượng
(tạp chí Xưa ,Nay số 54B tháng 8-1998,VN)

* trân trọng xin phép và cảm ơn tạp chí Xưa & Nay, giáo sư Trần Quốc Vượng.  Ðặc biệt cảm ơn nhà thơ Hà Nguyên Dũng đã chuyển bài.